Nguyễn
Thông (1827–1884), tự Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am; là quan nhà
Nguyễn và là danh sĩ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 19.
Tiểu sử
Nguyễn
Thông (阮通) sinh ngày 28 tháng 5 năm 1827 tại làng Bình Thạnh, tổng
Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Phú Ngãi
Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An).
Thân
phụ ông là Nguyễn Hanh, người Tân Thạnh (tỉnh Gia Định), kết hôn cùng bà Trịnh
Thị A Mầu nguyên quán ở Thừa Thiên, sinh hạ được hai trai là Nguyễn Thông và
Nguyễn Hài.
Thuở
nhỏ, hai anh em ông được cha dạy dỗ. Năm Nguyễn Thông 10 tuổi thì mẹ mất, 17 tuổi
thì cha mất, hai anh em phải vất vả kiếm sống. Rất ham học nhưng không có thầy,
Nguyễn Thông cùng em tự học. Đến khi Nguyễn Nhữ Hiền được bổ làm Tri phủ ở Tân
An, hai anh em ông liền đến xin thọ giáo. Nhưng học chẳng được lâu, vì thầy dạy
phải trở về kinh.
Năm
1844, Nguyễn Thông ra học ở Huế. Năm 1849, ông thi đậu cử nhân nhưng thi hội bị
đánh hỏng vì tập bài thi bị lấm mực. Biết văn tài của Nguyễn Thông, nhiều người
khuyên nên đợi để thi khoa sau. Nhưng vì nhà nghèo không thể tiếp tục học, Nguyễn
Thông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong, tỉnh An Giang.
Sáu
năm sau (1855), ông được triệu ra Huế, năm sau được thăng Hàn lâm viện tu soạn,
tham gia soạn sách "Nhân sự kim giám" (gương vàng soi việc người).
Năm
1859, khi thực dân Pháp xâm chiếm miền Đông Nam Kỳ, ông xin tòng quân và được cử
làm tham mưu (coi việc cơ mật) cho tướng Tôn Thất Hiệp. Năm 1861, đại đồn Chí
Hòa thất thủ, ông được thăng từ Vệ úy lên Chưởng vệ, sung chức Phó đề đốc, để
hiệp cùng Trương Định chống giặc.
Năm
1862, triều đình Huế cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, ông đến Phước Tuy
(Bà Rịa). Được Phan Thanh Giản đề cử, ông trở về Vĩnh Long giữ chức Đốc học từ
năm 1863 đến tháng 7 năm 1864. Thời gian này, ông đã cho xây dựng lại Văn Thánh
Miếu Vĩnh Long và đồng thời liên lạc chặt chẽ với các tổ chức chống Pháp. Cùng
trong thời gian này, ông cùng các bạn đồng môn đã tổ chức cải táng Võ Trường Toản
từ Chí Hòa về Ba Tri (Bến Tre) vì không muốn mộ phần thầy nằm trên đất của đối
phương.
Năm
1867, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cũng bị Pháp xâm chiếm, ông cùng với nhiều sĩ phu
Nam Kỳ không chịu hợp tác, nên đã tị địa ra tại Bình Thuận.
Năm
1867, Nguyễn Thông được cử làm Án sát Khánh Hòa rồi Quảng Ngãi. Thời gian này
ông dâng sớ lên triều đình, để biện bạch cho Phan Thanh Giản, đồng thời dâng bốn
bản điều trần về kế sách hưng thịnh quốc gia cho vua Tự Đức. Tuy nhiên, tất cả
đều không được chấp nhận vì sự gièm pha của các đại thần khác chánh kiến trong
triều.
Năm
1870, ông tham gia chấm thi trường Thừa Thiên, kết thân với Phạm Phú Thứ, Nguyễn
Tư Giản, Đỗ Đăng Đệ...rồi làm Biện lý bộ Hình, Bố chánh Quảng Ngãi. Ở đây, Nguyễn
Thông đã tích cực thi hành những biện pháp để bài trừ nạn tham ô, hà hiếp dân
chúng của bọn cường hào ác bá địa phương. Việc làm này của ông đã đụng chạm tới
quyền lợi của một số đại thần trong triều, vì vậy không lâu sau ông bị cách chức,
tống giam và bị xử trượng, sau nhờ dân chúng kêu oan tới vua, mới được giải tội.
Năm
1873, ông xin về dưỡng bệnh tại Sơn Trung (Bình Thuận), kết bạn cùng các thân
hào trí thức địa phương, đồng thời thực hiện các hoạt động khai khẩn.
Năm
1874, triều đình cho phục chức, làm việc trong bộ Lễ nhưng khi đến Huế, ông lại
bị bệnh nên phải cáo về.
Năm
1876, ông lại được triệu về kinh, giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám. Thời gian
này ông cùng với các quan trong triều như Bùi Ước, Hoàng Duy Tân khảo duyệt bộ
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, nhân đó soạn Việt sử cương giám khảo lược.
Năm
1877, triều đình chấp thuận kế hoạch khai hoang vùng La Ngư, Ba Dầu (Bình Tuy)
ngày nay nên cử ông về làm Doanh điền sứ Bình Thuận.
Năm
1878, bệnh cũ tái phát, ông xin nghỉ dài hạn. Năm 1880, được mật chỉ cùng với
các quan địa phương xử vụ nổi dậy của người thiểu số, xử vụ lưu dân từ trong
Nam ra. Cũng năm này, ông thành lập Đồng Châu xã và xây dựng Ngọa Du Sào để có
nơi làm thơ, đọc sách.
Năm
1881, Nguyễn Thông được bổ làm Phó sứ điển nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận.
Năm sau thăng Hồng lô tự khanh. Năm 1883, kinh thành thất thủ, Tự Đức băng hà,
ông ra Huế thọ tang vua.
Tháng
4 năm 1884, Ngọa Du Sào văn tập của ông ra đời. Tháng 6 năm đó, ông viết di
chúc... Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1884 (tức ngày 27 tháng 8 năm Giáp Thân), thọ
57 tuổi.
Mộ
phần của ông đặt ở đồi Ngọc Lâm, sát chân núi Ngọc Sơn, đối diện với Tháp Chăm
Pôshanư, Lầu ông Hoàng và Bửu Sơn Tự thuộc phường Phú Hài, trên con đường từ
Phan Thiết đi Mũi Né.
Gia đình
Ngọa
Du Sào (trong khuôn viên trường Dục Thanh) do Nguyễn Thông xây dựng để có nơi làm
thơ, đọc sách. Năm 1910, Nguyễn Tất Thành đến đây dạy học, cũng từng đọc sách tại
đây.
Ông
kết hôn với bà Ngô Thị A Thúy (Ngô Thị Tý), cháu cố của Ngô Nhân Tịnh, sinh hạ
được hai người con trai là Nguyễn Trọng Lội (hay Lỗi) và Nguyễn Quý Anh (cả hai
đều là nhà duy tân cải cách trong phong trào Duy Tân) và ba người con gái.
Ngoài ra, ông còn có một người con trai và một người con gái với người vợ kế họ
Đoàn.
Các tác phẩm chính
Việt
sử thông giám cương mục khảo lược
Khâm
Định nhân sự kim giám
Dương
chính lục
Kỳ
xuyên thi sao
Kỳ
xuyên vǎn sao
Ngọa
du sào tập
...
Đánh giá
Thơ
văn Nguyễn Thông là tấm lòng ưu ái đối với những người xấu số, sự quan tâm đến
nghề làm ruộng và gắn bó với đời sống của nông dân. Ông ca ngợi và xót thương
những người hy sinh trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Nổi bật và bao trùm là tấm
lòng yêu mến quê hương mà ông phải lìa bỏ vì không chịu sống trên đất kẻ thù đã
chiếm đóng...
Sinh
trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm gần gũi với những người lao động,
có vốn học thức, có năng khiếu thơ văn, lại được đi nhiều...nên hầu hết trước
tác của ông đều thiên về tả thực, giàu chất trữ tình, mang tính tố cáo cao,
không sa đà viễn vông hay sáo rỗng...Tuy đôi lúc trong thơ văn ông, cũng không
tránh khỏi những nỗi buồn hiu hắt của một nhà nho cảm thấy bất lực trước vận mệnh
tồn vong của non sông, của dân tộc mà ông yêu mến