Shimon Peres - cựu Tổng thống Israel, Nobel hòa bình năm 1994
02 tháng 8 2024
24 tháng 7 2022
“XIN THẦY HÃY DẠY CHO CON TÔI” – Trích thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học
“XIN THẦY HÃY DẠY CHO CON TÔI” – Trích thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học
Con tôi sẽ phải học tất cả những điều
này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân
thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên đường
phố thì ở đâu đó sẽ có một con người chính trực; cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm.
Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết; nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu
biết rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý
giá hơn nhiều so với năm đôla nhặt được trên hè phố...
Xin thầy dạy cho cháu biết cách chấp
nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng.
Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ.
Xin dạy cháu biết được bí quyết của
niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt
người khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất...
Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới
kỳ diệu của sách...
nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của
cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và
những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.
Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến
riêng của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó hoàn
toàn sai lầm...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử
dịu dàng với những người hòa nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho
cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy
theo thời thế.
Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng
nghe tất cả mọi người nhưng cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc
những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười
khi buồn bã, xin hãy dạy cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước
mắt.
Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những
kẻ yểm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.
Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán
cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra
giá mua trái tim và tâm hồn mình...
Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ
trước một đám đông đang gào thét... và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu
cho là đúng...
Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu
nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi
luyện nên được những thanh sắt cứng rắn.
Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu
phải luôn có niềm tin tuyệt đối vào bản thân, bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm
tin tuyệt đối vào nhân loại.
Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy. Nhưng xin thầy cố gắng
hết sức mình, nếu được vậy, con trai tôi quả thật là một cậu bé hạnh phúc và
may mắn.
Nguồn DANH NHÂN ABRAHAM LINCOLN – Tổng thống Mỹ
25 tháng 1 2022
Corazon Aquino – Tổng thống thứ 11 của Philippines và là nữ Tổng thống đầu tiên của Châu Á
Maria Corazon "Cory" Cojuangco Aquino (25
tháng 1 năm 1933 – 1 tháng 8 năm 2009) là Tổng thống thứ 11 của Philippines
và là một nhà hoạt động dân chủ, hòa bình, nữ quyền, và mộ đạo nổi tiếng thế giới.
Bà giữ chức vụ tổng thống từ năm 1986 đến 1992. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của
Philippines nói riêng và của cả châu Á nói chung.
Tự nhận là một "nhà nội trợ giản dị", Aquino kết
hôn với Nghị sĩ Benigno Aquino, Jr. (1932–1983), một nhân vật hàng đầu hoạt động
chống đối chế độ chuyên quyền của Tổng thống Ferdinand Marcos. Sau khi chồng bà
bị ám sát vào ngày 21 tháng 8 năm 1983, Aquino, trước đó chưa có kinh nghiệm
chính trị, trở thành một tâm điểm và sức mạnh đoàn kết trong phong trào chống
Marcos. Bà được mời ứng cử tranh đua với Marcos trong cuộc bầu cử tổng thống
năm 1986. Sau khi Marcos được tuyên bố là người thắng cử mặc dù có nhiều cáo buộc
gian lận bầu cử, Aquino được đưa vào chức vụ tổng thống trong cuộc Cách mạng
Quyền lực Nhân dân không đổ máu.
Đầu đời và học vấn
Corazon Cojuangco là người con thứ sáu trong một
gia đình có tám người con ở tỉnh Tarlac, là một thành viên của một trong những
gia đình lai Hoa giàu có nhất Philippines. Cha bà là Jose Cojuangco từ Tarlac
và mẹ bà là Demetria Sumulong từ Antipolo, Rizal. Một người em trai của bà là
Jose Cojuangco từng là Chủ tịch Ủy ban Olympic của Phillipines.
Bà được gửi
đến trường St. Scholastica's College Manila và hoàn tất tiểu học hạng thủ khoa
năm 1943. Năm 1946, bà học trung học một năm tại Tu viện Assumption ở Manila.
Sau đó bà được đưa ra nước ngoài để học tập tại Học viện Ravenhill ở
Philadelphia, Trường Tu viện Notre Dame ở New York, và Đại học Mount Saint
Vincent, cũng ở New York. Bà làm việc tình nguyện trong cuộc vận động tranh cử
tổng thống Hoa Kỳ của ứng cử viên Cộng hòa Thomas Dewey năm 1948. Bà học môn
khoa học nhân văn và tốt nghiệp năm 1953 với bằng Cử nhân (Bachelor of Arts)
môn tiếng Pháp, và bằng phụ trong môn toán học. Bà định trở thành một giáo viên
toán và thông dịch viên.
Lập gia đình
Bà hồi
hương và học luật tại Đại học Far Eastern, sở hữu của gia đình ông Nicanor
Reyes, Sr. đã quá cố, và cũng là cha chồng của chị bà. Bà ngưng học tập luật năm
1954, khi bà kết hôn Benigno Servillano "Ninoy" Aquino, Jr., con của
cựu Chủ tịch Quốc hội. Họ có năm người con: một người con trai, Benigno Simeon
Aquino III, người được bầu vào Thượng viện năm 2007 và đắc cử Tổng thống năm
2010, và bốn người con gái, Maria Elena A. Cruz, Aurora Corazon A. Abellada,
Victoria Eliza A. Dee, và diễn viên và người đãn chương trình Kristina
Bernadette A. Yap. Aquino lúc đầu khó thích nghi với đời sống tỉnh lẻ khi họ dọn
nhà đến Concepcion, Tarlac năm 1955, sau khi chồng bà được bầu làm thị trưởng
thành phố ở tưổi 22. Được giáo dục ở Mỹ, bà cảm thấy nhàm chán ở Concepcion, và
hoan nghênh các cơ hội được ăn tối trong khu quân sự Mỹ ở Clark Field gần đó.
Là thành viên
của Đảng Tự do, chồng bà sớm trở thành thống đốc Tarlac, và được bầu vào Thượng
viện năm 1967. Trong chính nghiệp của chồng bà, Aquino giữ vai trò người nội trợ
nuôi dạy các con cái và đón khách là đồng minh chính trị của chồng mình tại nhà
riêng ở Thành phố Quezon. Bà từ chối không lên khán đài với chồng trong các cuộc
vận động, mà chỉ đứng ở đằng sau khán giả để nghe ông đọc diễn văn. Tuy nhiên,
bà vẫn được chồng hỏi và tôn trọng ý kiến trong các vấn đề chính trị.
Benigno
Aquino sớm trở thành một nhân vật đứng đầu chỉ trích chính quyền của tổng thống
Ferdinand Marcos thuộc Đảng Nacionalista, và nhiều người suy đoán ông sẽ tranh
cử trong cuộc bầu cử năm 1973, khi Marcos bị giới hạn nhiệm kỳ theo hiến pháp.
Tuy nhiên, ngày 21 tháng 9 năm 1972, Marcos tuyên bố tình trạng thiết quân luật
và sau đó hủy bỏ Hiến pháp năm 1935, và vì thế được giữ chức. Chồng bà là một
trong những người đầu tiên bị bắt giữ dưới thiết quân luật, và sau đó bị kết án
tử hình. Trong lúc bị giam cầm, Aquino lấy sức mạnh từ cầu nguyện, tham gia
Thánh lễ hằng ngày và đọc Kinh Mân Côi ba lần mỗi ngày. Để tỏ lòng hy sinh, bà
chỉ thị các con không được tham dự các lễ tiệc, và bà cũng ngưng đi đến tiệm
trưng diện sắc đẹp hay mua quần áo mới, cho đến khi một linh mục khuyên bà và
các con cứ sống một cuộc sống bình thường.
Năm 1978, mặc
dù gặp sự phải đối của bà, chồng bà (đang ngồi tù) quyết định tranh cử vào quốc
hội. Bà đã vận động cho chồng, và đã đọc diễn văn lần đầu trong đời, nhưng khi
bà biết được cô con gái sáu tuổi Kris rất muốn được đọc diễn văn, bà đã cho con
đọc.
Năm 1980, với sự can thiệp của Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy
Carter, Marcos cho phép Nghị sĩ Aquino và gia đình rời khỏi
Philippines đến Hoa Kỳ để trị bệnh. Gia đình định cư tại Boston, và bà Aquino
sau này nhớ lại ba năm kế tiếp là giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc hôn nhân.
Ngày 21 tháng 8 năm 1983, ông trở về Philippines một mình, rồi lập tức bị ám
sát ngay tại Sân bay quốc tế Manila (sau này đã được đổi tên để vinh danh ông).
Bà trở về Philippines vài ngày sau và chủ trì đám tang của chồng, với sự tham dự
của trên 2 triệu người, tang lễ lớn nhất lịch sử Philippines.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1986
Trong hai
năm sau khi chồng bà bị ám sát, Aquino đã tham gia trong nhiều cuộc biểu tình
được diễn ra. Trong tuần cuối tháng 11 năm 1985, Marcos bất ngờ tuyên bố một cuộc
bầu cử sẽ được tổ chức vào tháng 2 năm 1986. Lúc đầu, Nghị sĩ Salvador Laurel từ
Batangas, con trai của cựu tổng thống Laurel, được xem là người dẫn đầu trong
khối chống đối, dưới Các tổ chức Dân chủ Ái quốc Thống nhất. Tuy nhiên, nhà tài
phiệt Joaquin "Chino" Roces không tin chắc rằng Laurel có thể thắng
được Marcos. Roces bắt đầu phong trào Vận động Cory Aquino Ứng cử Tổng thống để
lấy một triệu chữ ký kêu gọi Aquino ứng cử trong vòng một tuần.
Lúc đầu
Aquino không muốn ra ứng cử, mặc dù có nhiều người tin rằng bà là ứng cử viên
duy nhất có thể thống nhất các khối chống lại Marcos. Sau mười tiếng đồng hồ ngẫm
nghĩ tại một tu viện Công giáo, bà đồng ý ứng cử. Lúc đầu Laurel không chịu
theo lời kêu gọi rút lui để nhường chỗ cho Aquino và mời bà ứng cử chức phó tổng
thống dưới đảng UNIDO của ông. Trái lại, Aquino chịu rời bỏ đảng của chồng mình
là Lakas ng Bayan (LABAN), vừa mới hợp nhất với Partido Demokratiko Pilipino,
và ứng cử dưới đảng UNIDO với Laurel là ứng cử viên phó tổng thống. Laurel chịu
để Aquino ứng cử tổng thống dưới đảng UNIDO trong khi ông ứng cử liên danh phó
tổng thống.
Trong cuộc
vận động tranh cử diễn ra sau đó, Marcos cáo buộc rằng Aquino đang được các thế
lực cộng sản ủng hộ và đã đồng ý chia sẻ quyền lực với họ, và bà trả lời rằng
bà sẽ không bổ nhiệm người nào vào nội các của mình. Marcos cũng cáo buộc
Aquino đang chơi trò "bóng đá chính trị" với Hoa Kỳ về sự hiện diện của
quân đội Hoa Kỳ tại Philippines ở Căn cứ Không quân Clark và Căn cứ Hải quân
Subic. Marcos cũng chế nhạo Aquino
"chỉ là một phụ nữ" với địa vị là trong phòng ngủ.
Trong cuộc
bầu cử ngày 7 tháng 2 năm 1986, nhiều cử tri đã bị đe dọa và không được cho bầu.
Trong ngày bầu cử và những ngày sau đó đã có nhiều bạo lực xảy ra, kể cả cuộc
ám sát của một trong những đồng minh chính trị hàng đầu của bà, thống đốc tỉnh
Antique Evelio Javier. Trong khi kết quả chính thức của Hội đồng Bầu cử
(COMELEC) luôn cho thấy Marcos đang dẫn đầu, kết quả không chính thức của Phong
trào Quốc gia cho Bầu cử Tự do cho thấy Aquino đang dẫn đầu. Mặc dù 30 nhân
viên máy tính của COMELEC đã bỏ việc để lên án sự sắp đặt kết quả có lợi cho
Marcos, quốc hội (Batasang Pambansa), dưới sự kiểm soát của những đồng minh của
Marcos, đã thông qua kết quả chính thức và tuyên bố Marcos đã thắng cử vào ngày
15 tháng 2 năm 1986. Các Giám mục Công giáo Philippines và Thượng viện Hoa Kỳ
đã lên án cuộc bầu cử, và Aquino kêu gọi một cuộc tổng đình công và tẩy chay
các doanh nghiệp đang được các đồng minh của Marcos kiểm soát. Bà cũng đã bác bỏ
đề nghị chia sẻ quyền lực của nhà ngoại giao Mỹ Philip Habib, được tổng thống
Ronald Reagan cử đến để làm bớt căng thẳng.
Lên chức tổng thống
Ngày 22
tháng 2 năm 1986, cuộc Cách mạng Quyền lực Nhân dân tiến hành sau khi hai đồng
minh then chốt của Marcos là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Juan Ponce Enrile và Phó
Tư lệnh Quân đội Fidel Ramos kêu gọi Marcos từ chức và ẩn náu trong hai căn cứ
quân sự tại Quezon. Aquino, đang ở Cebu khi cuộc nổi dậy bắt đầu, trở về Manila
và nhất định đòi nhập vào đám đông ngày càng lớn lên bên ngoài hai căn cứ để
làm chướng ngại vật để bảo vệ hai người này. Sáng ngày 25 tháng 2, tại Club
Filipino ở San Juan, Aquino đọc tuyên thệ nhậm chức tổng thống được chủ trì bởi
Thẩm phán Tòa án Tối cao Claudio Teehankee. Marcos cũng tuyên thệ nhậm chức
cùng ngày tại Cung điện Malacañang nhưng tối hôm đó đã tẩu thoát đến Hawaii.
Tổng thống
Cách lên cầm
quyền tương đối êm ả của Aquino sau cuộc Cách mạng Quyền lực Nhân dân đã khiến
cộng đồng quốc tế tôn vinh bà như một thần tượng dân chủ. Bà được Tạp chí Time
chọn là Nhân vật của Năm vào năm 1986. Bà cũng được đề cử cho Giải Nobel Hòa
bình (nhưng không được giải). Vào tháng 9 năm 1986, Aquino đã phát biểu trước
lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ và được ngắt lời bằng tiếng vỗ tay nhiều lần, và Chủ
tịch Hạ viện Tip O'Neill gọi đó là "diễn
văn hay nhất mà tôi được nghe qua trong 34 năm tôi làm việc trong Quốc hội."
Trong sáu
năm dưới chính phủ Tổng thống Aquino, một hiến pháp mới đã được thông qua, cũng
như một số cải cách luật pháp, kể cả một luật cải cách ruộng đất. Trong khi các
đồng minh của bà giữ đa số ghế trong cả hai viện quốc hội, bà gặp phải nhiều đối
lập từ cuộc nổi dậy cộng sản và những quân nhân cánh hữu đã vài lần đảo chính.
Chính phủ của bà cũng đã phải đối phó với một vài thiên tai lớn, cũng như một
cuộc khủng hoảng điện lực đã ngăn trở nền kinh tế Philippines. Cũng dưới chính phủ bà, Mỹ bắt đầu rút quân
ra khỏi các căn cứ quân sự tại Philippines.
Cải cách hiến pháp và luật pháp
Một tháng
sau khi nhậm chức, Aquino đã đưa ra Công bố số 3, tuyên bố chính phủ bà là một
chính phủ cách mạng. Bà làm mất hiệu lực Hiến pháp năm 1973 đã được đặt ra
trong tình trạng thiết quân luật, và ban bố một "Hiến pháp Tự do" lâm thời trong lúc một hiến pháp mới chưa được
ban hành. Bà cũng đã hủy bỏ cơ quan lập pháp Batasang Pambansa (Quốc hội) và tổ
chức lại các thành viên trong Tòa án Tối cao. Tháng 5 năm 1986, Tòa án Tối cao
mới tổ chức lại tuyên bố chính phủ Aquino "chẳng những là một chính quyền
thực tế (de facto) mà còn là một chính quyền hợp pháp (de jure)", và đã được
cộng đồng các quốc gia trên thế giới công nhận là chính thống.
Aquino bổ
nhiệm 48 thành viên trong một Ủy ban Hiến pháp với nhiệm vụ là phác thảo một hiến
pháp mới. Ủy ban, dưới sự quản lý của chủ tịch Cecilia Muñoz-Palma, một thẩm
phán Tòa án Tối cao đã về hưu, hoàn tất bản thảo cuối cùng vào tháng 10 năm
1986 Hiến pháp 1987 được phê chuẩn qua một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 2 năm
1987.
Cả hai Hiến pháp Tự do và Hiến pháp 1987 cho
phép Tổng thống Aquino thi hành quyền lập pháp cho đến lúc một Quốc hội mới được
tổ chức. Bà tiếp tục thi hành quyền lập pháp cho đến khi Quốc hội được tổ chức
dưới Hiến pháp năm 1987 được triệu tập vào tháng 7 năm 1987. Trong thời gian
đó, Aquino đã ban hành hai bộ luật có nhiều cải cách quan trọng - Bộ luật Gia
đình năm 1987 đã cải cách luật pháp dân sự (civil law) về quan hệ gia đình và Bộ
luật Hành chính năm 1987 đã tổ chức lại cấu trúc của nhánh hành pháp của chính
phủ.
Tuy nhiên,
thay vì không thừa nhận các món nợ của chế độ cũ, Aquino đã nhận trả các món nợ
đó. Năm 1991, Aquino đã ban hành Bộ luật Chính quyền Địa phương, một phần được
viết bởi Aquilino Pimentel, bộ luật này trao nhiều quyền hạn của chính quyền
trung ương cho chính quyền địa phương. Bộ luật mới tăng quyền lực các địa
phương để đánh thuế địa phương, và đảm bảo họ một phần của thu nhập quốc gia.
Cải cách ruộng đất
Ngày 22 tháng 7 năm 1987, Aquino đưa ra Công bố số 131
và Chỉ thị Hành pháp số 229, phát ra những nét chính về chương trình cải cách ruộng
đất, và mở rộng các thành phần đất đai được cải cách để tính luôn đất sản xuất
đường. Chính sách cải cách ruộng đất của bà được Quốc hội thứ 8 thông qua trong
năm 1988 thành Luật số 6657, còn được gọi là "Luật Cải cách Ruộng đất Toàn diện" (CARP). Đạo luật cho
phép chính phủ chia đất cho nông dân từ đất của địa chủ. Các địa chủ được chính
phủ trả tiền bồi thường thích đáng và được phép giứ không quá 5 hecta đất. Địa
chủ mà là doanh nghiệp cũng được phép "tự nguyện tước bỏ một phần cổ phần,
tài sản hay lợi tức (participation) cho các nhân viên hay những người đủ tư
cách thừa hưởng khác", thay vì đưa đất cho chính phủ để chia đất. Tòa án Tối
cao xác nhận sự hợp hiến của đạo luật này trong năm 1989, và miêu tả chính sách
cải cách ruộng đất như là "một sự sung công lối cách mạng".
Trước khi
CARP được thông qua một tổ chức nông dân lớn dưới sự lãnh đạo của Jimmy Tadeo
đã cố gắng đem khiếu nại của họ đến chính phủ. Trong các khiếu nại họ đưa ra là
sự mong muốn các nông dân được sở hữu đất đai mà họ đang cày cấy. Tuy vậy, họ
không đối thoại với Bộ trưởng Cải cách Ruộng đất Heherson Alvarez mà lại diễn
hành đến Mendiola và khi nhóm nông dân muốn xuyên qua đường cảnh sát, một vài
lính thủy quân lục chiến đã nổ súng, làm thiệt mạng khoảng 12 người và làm bị
thương 39 người. Sự việc này đã khiến Ka Pepe Diokno và một số thành viên trong
chính phủ Aquino phải từ chức.
Tài sản đất
đai của Aquino, được thừa hưởng từ cha mẹ bà, cũng gây ra tranh cãi. Bà sở hữu
một đồn điền 6.453 hecta tên là Hacienda Luisita ở Tarlac do công ty Phát triển
Tarlac làm chủ. Dưới luật cải cách ruộng đất, công ty Phát triển Tarlac đã
thành lập Hacienda Luisita, Incorporated (HLI) để phân chia cổ phần cho các
nông dân làm việc tại đồn điền. Doanh nghiệp mới này được sở hữu phần nông nghiệp
của đồn điền, và đã chia sẻ cổ phần cho nông dân. Sứ sắp đặt này được duy trì
cho đến năm 2007, khi Bộ Cải cách Ruộng đất hủy bỏ chương trình phân chia cổ phần
tại Hacienda Luisita, và chỉ thị phân chia một phần lới của cải cho các nông
dân. Bộ đã can thiệp vào vụ này khi bạo động xảy ra khi số nhân viên bị giảm bớt
tại Hacienda năm 2004, làm thiệt mạng 7 người.
Các cuộc nổi dậy và đảo chính
Từ 1986 đến
1989, Aquino đã phải đối đầu với một số cuộc đảo chính không thành do các quân
nhân trong Quân đội Philippines để lật đổ chính phủ Aquino. Hầu hết các âm mưu
đều là của Phong trào Cải cách Lực lượng Vũ trang (RAM) bao gồm một nhóm sĩ
quan trung cấp có quan hệ gần gũi với Bộ trưởng Quốc phòng Juan Ponce Enrile. Các
quân nhân trung thành với cựu tổng thống Marcos cũng đã tham gia trong một số
cuộc đảo chính. Năm cuộc đảo chính đầu tiên đã bị dập tắt trước khi tiến hành
hay đã bị đàn áp dễ dàng và không đỏ máu. Lần thứ sáu, tiến hành vào ngày 28
tháng 8 năm 1987, đã khiến 53 người thiệt mạng và trên 200 người bị thương, kể
cả con trai của bà, Noynoy. Lần thứ bảy và cuối cùng, diễn ra vào tuần đầu
tháng 1 năm 1989, đã kết thúc với 99 người bị chết (kể cả 50 dân thường) và 570
người bị thương.
Mặc dù
chính phủ Aquino đã không bị lật đổ, nó cũng đã bị yếu đi vì các cuộc đảo chính
đã cho thấy tình trạng chính trị không ổn định, một quân đội bất trị, và đã giảm
đi sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế Philippines. Riêng
cuộc đảo chính năm 1989 đã đem lại tổn thất từ 800 triệu đến 1 tỷ peso.
Các âm mưu
tháng 11 năm 1986 và tháng 8 năm 1987 đã khiến chính phủ Aquino phải tổ chức lại.
Do có sự dính líu của Bộ trưởng Quốc phòng Enrile trong âm mưu tháng 11 năm
1987, Aquino đã cách chức ông vào ngày 22 tháng 11 năm 1986 và tuyên bố cải tạo
nội các "để cho chính phủ một cơ hội bắt đầu lại từ đầu." Cuộc cải tạo
đã dẫn đến sự ra đi của Bộ trưởng Lao động Augusto Sanchez, bị xem là một nhân
vật cánh tả, được xem là một biện pháp thỏa hiệp vì những người đảo chính đã
đòi hỏi làm sạch các thành viên cánh tả trong nội các. Sau cuộc đảo chính không
thành tháng 8 năm 1987, chính phủ Aquino được xem là đi đến cánh hữu, loại bỏ
các viên chức bị xem là cánh tả như Bộ trưởng Hành pháp Joker Arroyo và cho
phép lập những lực lượng vũ trang bán quân sự để chống lại cuộc nổi dậy cộng sản.
Người ta cũng tin rằng Tướng Fidel Ramos, người vẫn trung thành với Aquino, trở
thành người có địa vị số 2 sau khi ông đã thành công dập tắt cuộc đả chính. Tất
cả các quân nhân cũng được tăng lương.
Bà Aquino
đã kiện nhà bình luận cho tờ Philippine Star Louie Beltran và nhà xuất bản
Maximo Soliven về tội phỉ báng sau khi Beltran đã viết rằng bà đã trốn dưới gầm
giường trong cuộc đảo chính tháng 7 năm 1987 khi Cung điện Malacañang bị bao
vây.
Thiên tai và tai nạn
Trong hai
năm cuối nhiệm kỳ, chính phủ Aquino đã gặp một loạt thiên tai. Trận động đất
Luzon năm 1990 đã làm thiệt mạng khoảng 1600 người, với khoảng một ngàn người
thiệt mạng trong Thành phố Baguio. Núi Pinatubo, một núi lửa không hoạt động
lâu năm, bỗng dưng phun lửa vào năm 1991 - đây là cuộc phun lửa lớn thứ nhì của
thế kỷ 20, làm thiệt mạng khoảng 300 người và làm thiệt hại lâu năm nhiều vùng
đất đai tròng trọt ở miền trung Luzon. Thiệt hại nhân mạng cao nhất xảy ra khi
Bão Thelma (còn gọi là Bão Uring) đã gây nên lũ lụt ở Thành phố Ormoc vào tháng
11 năm 1991, làm 6000 người chết và trở thành cơn bão chết chóc nhất trong lịch
sử Philippines.
Trong nhiệm
kỳ của Corazon Aquino nạn điện yếu thỉnh thoảng diễn ra và nhiều nhà đã mua máy
phát điện. Công ty điện lực quốc gia đã gặp nhiều phàn nàn vì Ernesto Aboitiz,
giám đốc công ty điện lực, cũng là một cổ đông trong một công ty bán máy phát
điện. Cũng trong nhiệm kỳ của Aquino mà chiếc tàu MV Doña Paz bị đắm, trở thành
tai nạn đường thủy tai hại nhất trong lịch sử Philippines. Tai nạn này xảy ra
vào tháng 12 năm 1987, làm thiệt mạng hơn 1700 người.
Vai trò trong cuộc vận động tranh cử tổng thống năm
1992
Vì hiến
pháp do chính bà ban hành không cho phép tổng thống phục vụ hơn một nhiệm kỳ 6
năm, Aquino không thể ứng cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992. Thay vào
đó, Aquino đã ủng hộ Bộ trưởng Quốc phòng Fidel V. Ramos (lúc đầu bà đã chỉ định
Ramon Mitra, Jr., cựu Bộ trưởng Nông nghiệp trong nội các của bà và sau đó là
Chủ tịch Hạ viện làm ứng cử viên của mình). Ramos chính là phó tổng tư lệnh
trong thời Marcos và việc ông đi theo phía Aquino là một bước đi then chốt
trong cuộc cách mạng nhân dân. Lựa chọn này không được những người ủng hộ bà ủng
hộ lắm, trong đó có Giáo hội Công giáo (Ramos là một tín đồ Tin Lành). Ramos thắng
cử với 23,58% số phiếu và kế nhiệm Aquino làm tổng thống vào ngày 30 tháng 6
năm 1992.
Sau tổng thống
Sau khi kết
thúc nhiệm kỳ, Aquino trở về cuộc sống thường dân. Khi bà rời khỏi lễ nhậm chức
của người kế nhiệm mình, bà dùng chiếc Toyota Crown giản dị mà bà đã mua thay
vì chiếc Mercedes do chính phủ cấp, để nói rõ rằng từ nay bà là một công dân
bình thường.
Aquino đã
lãnh đạo Quỹ PinoyME, một tổ chức phi lợi nhuận giúp đỡ các cơ sở tín dụng vi
mô cho vay tiền. Bà cũng đã quản lý các dự án phúc lợi xã hội và giúp đỡ bằng học
bổng qua Quỹ Benigno S. Aquino, và ủng hộ chính phủ tốt qua Ủy ban Quyền lực
Nhân dân EDSA, và Phong Trào Quyền lực Nhân dân.
Bà cũng là
thành viên của Hội đồng của các Nhà lãnh
đạo Thế giới Phụ nữ, một mạng lưới bao gồm các nữ tổng thống và thủ tướng
hiện tại và quá khứ với mục đích là huy động các nhà lãnh đạo phụ nữ toàn cầu để
hành động chung trong các vấn đề quan trọng đến phụ nữ và phát triển bình đẳng.
Aquino cũng là một họa sĩ tài ba, và thường
tặng những bức tranh vẽ của mình cho các bạn thân và người quen, kể cả cách nhà
lãnh đạo thế giới, nhà ngoại giao, và giám đốc các đoàn thể.
Các hoạt động chính trị
Aquino tiếp
tục phát biểu về các vấn đề chính trị. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1998,
bà ủng hộ ứng cử viên Alfredo Lim, đương kim thị trưởng Manila, nhưng ông đã về
thứ năm. Tháng 1 năm 2001, Aquino đóng một vai trò tích cực trong cuộc Cách mạng
EDSA thứ nhì lật đổ Tổng thống Joseph Estrada và đưa Gloria Macapagal-Arroyo
vào chức vụ tổng thống. Năm 2005, Aquino đã lên án Tổng thống Macapagal-Arroyo
với cáo buộc bà đã sắp đặt trước kết quả cuộc bầu cử tổng thống năm 2004. Bà đã
tham gia biều tình chống chính phủ Arroyo và kêu gọi Tổng thống Arroyo từ chức.
Tháng 12
năm 2008, Aquino đã bày tỏ hối tiếc vì đã tham gia trong cuộc Cách mạng EDSA
năm 2001 và đã trực tiếp xin lỗi cựu Tổng thống Joseph Estrada, người đã bị cuộc
nổi dậy đó lật đổ. Tuy nhiên, một phát ngôn viên của bà đã giải thích rằng lời
nói của bà đã bị trích chưa trọn ngữ cảnh, lời xin lỗi của bà chỉ là câu đùa giỡn
về một việc khác vui vẻ hơn.
Trong cuộc
tổng tuyển cử năm 2007, Aquino đã tích cực vận động cho người con trai của
mình, ông Benigno III, đã ứng cử thành công cho một ghế trong Thượng viện.
Vinh danh
Sau khi rời
khỏi chức vụ tổng thống, Aquino đã nhận được nhiều tuyên dương và danh dự. Năm
1994, Aquino được liệt kê là một trong 100
Phụ nữ đã Ảnh hưởng Lịch sử Thế giới trong một quyển sách tham khảm của tác
giả Gail Meyer Rolka và xuất bản bởi nhà xuất bản Bluewood Books ở San
Francisco, California. Năm 1996, bà nhận được Giải J. William Fulbright cho Sự
thông cảm Quốc tế từ Hội Fulbright, theo chân các người nhận giải trong quá khứ
như Jimmy Carter và Nelson Mandela. Tháng 9 năm 1999, được Tạp chí Time chọn
làm một trong 20 nhân vật châu Á có ảnh
hưởng nhất trong thế kỷ 20 bên cạnh các nhân vật như Tôn Dật Tiên, Mao Trạch
Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot và Mohandas Gandhi. Tháng 11 năm 2006 báo này cũng
liệt kê bà trong danh sách 65 Anh hùng châu Á vĩ đại, cùng với những tên tuổi
như Mohandas Gandhi, Đặng Tiểu Bình, Aung San Suu Kyi, Lý Quang Diệu, Quốc
vương Bhumibol Adulyadej, và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Sức khỏe
Vào ngày 24
tháng 3 năm 2008, gia đình Aquino báo tin bà đã bị chẩn đoán bệnh ung thư ruột
thừa. Trong lúc ban đầu bà được các bác sĩ cho biết bà chỉ sống được 3 tháng nữa,
bà vẫn muốn được liệu pháp hóa trị (chemotherapy). Trong phát biểu ngày 13
tháng 5 năm 2008, bà tuyên bố rằng thử máu đã cho thấy bà cơ thể bà đang có phản
ứng tích cực cho sự điều trị.
Đến tháng 7
năm 2009, có tin đưa ra cho rằng bà đang bệnh trầm trọng và đã được đưa đến
Trung tâm Y tế Makati do không còn thèm ăn nữa. Bà và gia đình đã quyết định
không nhận điều trị nữa.
Năm 2002,
Aquino trở thành phụ nữ đầu tiên được vào Ban điều hành trường Asian Institute
of Management, một trường kinh doanh hậu đại học và cơ quan chuyên gia cố vấn
hàng đầu trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Bà phục vụ trong Ban điều hành
cho đến năm 2006.
Qua đời
Aquino qua
đời vì biến chứng của bệnh ung thư ruột thừa ở tuổi 76 vào lúc 3:18 sáng ngày 1
tháng 8 năm 2009, tại Trung tâm Y tế Makati. Bà đã được chẩn đoán bệnh này vào
tháng 3 năm 2008 nhưng vẫn xuất hiện trong công chúng trong năm 2009. Là một
người Công giáo mộ đạo, bà vẫn tham gia Thánh lễ cuối tuần cho đến khi gần ngày
được đưa vào bệnh viện vào cuối tháng 6.
Các giáo phận
Công giáo đã dâng các thánh lễ cầu hồn cho bà. Cùng lúc, chính phủ đã tuyên bố
tang buồn cái chết của bà trong một tuần.[ Cựu Tổng thống Estrada nói rằng họ
đã mất một "người mẹ" và một "tiếng nói dẫn dắt nhân dân."
Thượng viện cũng đã tỏ lòng thương tiếc đối với cái chết của bà; Chủ tịch Thượng
viện Juan Ponce Enrile, người cùng với Fidel Ramos đã mở đầu cuộc Cách mạng Quyền
lực Nhân dân, kêu gọi dân chúng cầu nguyện cho bà. Lãnh đạo phe thiểu số
Aquilino Pimentel, người từng phục vụ trong nội các của bà, nói "Chúng ta sẽ luôn mang ơn Cory trong
việc thống nhất cả quốc gia trong chiến dịch lật đổ chế độ độc tài và phục hồi
nền dân chủ."
Nhiều nhân
vật quốc tế cũng tỏ lòng thương tiếc. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton nói rằng
Aquino "đã được thế giới cảm phục vì sự dũng cảm khác thường của bà".
Phát ngôn viên Nhà Trắng Robert Gibbs nói rằng "Sự dũng cảm, quyết tâm, và
lãnh đạo tinh thần của bà là một nguồn cảm hứng cho tất cả chúng ta và một ví dụ
của những gì hay nhất của người Philippines." Các đại sứ khác cũng gởi lời
chia buồn sau cái chết của bà.
Các giải thưởng và thành tích
·
1986 Người
của Năm của Tạp chí Time
·
1986 Giải
Nhân quyền Eleanor Roosevelt
·
1986 Huy
chương Bạc Liên Hợp Quốc
·
1986 Giải
Quốc tế vì Tự do Canada
·
1986 Được đề
cử Giải Nobel Hòa bình
·
1986 Giải
Dân chủ Quốc tế từ Hội Chuyên viên Chính trị Quốc tế
·
1987 Giải
vì Tự do từ Quốc tế Tự do
·
1993 Giải
Hòa bình Đặc biệt từ Quỹ Giải Hòa bình Aurora Aragon Quezon và Hội phụ nữ Quan
tâm Philippines
·
1995 Giải
Đường đến Hòa bình
·
1996 J.
William Fulbright Prize for International Understanding của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
·
1998 Giải
Ramon Magsaysay cho Sự thông cảm Quốc tế
·
1998 Giải
Pearl S. Buck
·
2001 Giải
Công dân Thế giới
·
2005 Giải Cầu
nối Lãnh đạo của David Rockefeller
·
EWC Asia Pacific
Community Building Award
·
Women's
International Center International Leadership Living Legacy Award
·
Giải Hòa
bình Bất bạo động Martin Luther King Jr.
·
United
Nations Development Fund for Women Noel Award for Political Leadership
Bằng danh dự
Tiến sĩ
trong lĩnh vực Quan hệ Quốc tế, honoris causa, từ:
·
Đại học
Boston ở Boston
·
Đại học
Eastern ở St. David, PA
·
Đại học
Fordham ở New York
·
Đại học
Waseda ở Tokyo
Tiến sĩ luật,
honoris causa, từ:
·
Đại học
Philippines
·
Đại học
Santo Tomas ở Manila
Tiến sĩ
Nhân văn (Humane Letters), honoris causa, từ:
·
Đại học
Ateneo de Manila
·
Đại học
Mount Saint Vincent ở New York
·
Đại học
Xavier (Thành phố Cagayan de Oro, Philippines)
Tiến sĩ
Nhân văn (Humanities), honoris causa, từ:
·
Đại học San
Beda ở Manila, 2000
·
Đại học
Seattle, 2002
·
Đại học
Stonehill ở Massachusetts
·
Đại học
Oregon, 1995
Nguồn WIKIPEDIA
02 tháng 11 2021
Warren G. Harding – Chính khách, Tổng thống thứ 29 của Hoa Kỳ
Warren G. Harding – Chính khách, Tổng thống thứ 29 của Hoa Kỳ
Warren Gamaliel Harding (2 tháng 11 năm 1865 –
2 tháng 8 năm 1923) là Tổng thống thứ 29 của Hoa Kỳ tại nhiệm từ năm 1921 đến
khi ông qua đời vào năm 1923. Ông là thành viên của Đảng Cộng hòa từ Ohio và là
một trong những vị Tổng thống nổi bật nhất thời điểm đó. Sau khi Harding qua đời,
một số vụ bê bối, như vụ Teapot Dome hay vụ ngoại tình với Nan Britton, mới được
phơi bày ra ánh sáng. Những vụ việc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến danh tiếng của
ông và dẫn đến việc Harding bị đánh giá là một trong những vị Tổng thống tệ nhất
trong lịch sử Hoa Kỳ.
Tiểu sử
Harding dành phần lớn thời gian của
mình sinh sống tại vùng nông thôn bang Ohio và chỉ di chuyển đên nơi khác để phục
vụ cho công việc chính trị của mình. Khi còn trẻ, ông đã mua một tòa soạn báo
mang tên The Marion Star và phát triển tòa soạn này trở nên lớn mạnh hơn. Năm
1899, Harding được bầu làm Thượng Nghị sĩ cho Thượng viện bang Ohio và làm việc
4 năm tại cơ quan này trước khi trở thành Phó Thống đốc bang Ohio. Ông thất bại
khi tranh cử chức Thống đốc bang Ohio năm 1910. Tuy nhiên, vào năm 1914,
Harding trở thành Thượng Nghị sĩ của Thượng viện Hoa Kỳ.
Sự nghiệp chính trị
Thời kỳ thăng tiến (1897-1919)
Ông là nhà xuất bản báo chí có thế lực với tài nói diễn văn trước công
chúng.
Ông phục vụ chính quyền tiểu bang
Ohio từ năm 1899 đến 1903 lên đến chức Phó thống đốc. Từ năm 1915 đến năm 1921
ông là Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Harding hoạt động chính trị theo xu hướng bảo thủ,
trở thành lãnh tụ Đảng Cộng hoà năm 1920. Trong cuộc tranh cử vào năm này, khi
Hoa Kỳ đang hồi phục sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông tuyên bố sẽ đưa Hoa
Kỳ trở lại bình thường, và đắc cử, thắng phe Đảng Dân chủ của James M. Cox, với
tỉ số 60,36% với 34,19%.
Tranh cử tổng thống Hoa Kỳ
Năm 1920, Harding tranh cử để trở
thành ứng viên đại diện Đảng Cộng hòa trong kỳ bầu cử Tổng thống. Trước khi hội
nghị Đảng Cộng hòa bắt đầu, Harding không được xem như là một ứng viên tiềm
năng để tranh chức vụ này. Tuy nhiên, khi các ứng cử viên hàng đầu của Đảng đều
không thể đạt được số phiếu đa số cần thiết, và việc bầu chọn trong nội bộ Đảng
đã đi đến bế tắc, Harding dần nhận được sự ủng hộ của các thành viên trong đảng.
Cuối cùng, ở lần bỏ phiếu thứ mười, ông đã được bầu chọn trở thành ứng viên đại
diện phe Cộng hòa trong kỳ bầu cử Tổng thống năm đó. Harding cho tiến hành chiến
dịch hiên nhà (tiếng Anh: front porch campaign) - ông phát biểu trước những người
ủng hộ mình ngay tại sân nhà ở Marion, Ohio hoặc một nơi nào đó trong thành phố.
Ông tranh cử với câu khẩu hiệu "return to normalcy" (tạm dịch: trở lại
bình thường) với ý muốn đưa đất nước trở lại như thời trước Chiến tranh Thế giới
thứ nhất. Ông đã chiến thắng sau khi vượt qua ứng cử viên Đảng Dân chủ James M.
Cox và ứng cử viên Đảng Xã hội Eugene Debs (người đang bị cầm tù lúc bấy giờ)
và trở thành người đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ trở thành Tổng thống khi vẫn
còn tại nhiệm chức Thượng Nghị sĩ.
Tổng thống Hoa Kỳ
Khi làm Tổng thống, Harding đã bổ nhiệm
một số nhân vật được đánh giá cao vào Nội các của mình, bao gồm Andrew Mellon
làm việc tại Bộ Tài chính, Herbert Hoover tại Bộ Thương mại, và Charles Evans
Hughes tại Bộ Ngoại giao. Chính sách đối ngoại nổi bật nhất của Harding phải kể
đến là việc khởi xướng và tham dự Hội nghị Hải quân Washington năm 1921 và
1922, trong đó các cường quốc sở hữu lực lượng hải quân hùng hậu bậc nhất trên
thế giới (trừ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga) đã đồng ý về một
chương trình giới hạn hoạt động quân sự của trên biển kéo dài một thập kỷ. Về
các vấn đề đối nội, Harding đã thả các tù nhân chính trị đã bị bắt vì phản đối
nước Mỹ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Khi những thành viên Nội các của
ông như Albert B. Fall (Bộ trưởng Bộ Nội vụ) và Harry Daugherty (Bộ trưởng Bộ
Tư pháp) lần lượt bị xét xử vì tham nhũng lúc tại chức, những vụ bê bối này
cũng như một số sự kiện xấu khác đã làm tổn hại rất lớn đến uy tín của Harding
ngay cả khi ông đã qua đời. Khi đang công du ở vùng phía tây đất nước, Harding
mất do chứng nhồi máu cơ tim tại San Francisco, 29 tháng sau khi nhậm chức tổng
thống. Ông là tổng thống Hoa Kỳ thứ 6 đã chết khi còn tại nhiệm. Sau sự kiện
này, Phó Tổng thống Calvin Coolidge đã lên kế nhiệm chức Tổng thống của
Harding.
Khi lên chức tổng thống, Harding lập
một nội các trong đó có Charles Evans Hughes, Andrew Mellon và Herbert Hoover.
Một vài người ông bổ nhiệm sau này bị tố cáo tham nhũng như bí thư nội vụ
Albert B. Fall. Về mặt đối ngoại, Harding ký Hiệp ước Versailles chính thức kết
thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông cũng xung phong trong công cuộc giải thể
lực lượng hải quân thế giới trong cuộc hội đàm hải quân tại Washington năm 1921
- 22.
Đánh giá
Tuy lúc đương thời, Harding rất được
mến chuộng, ông bị sử gia xếp vào hạng tổng thống kém tài nhất trong lịch sử
Hoa Kỳ. Thực ra, Harding cũng từng than phiền "Tôi không đủ sức cho chức vụ này và đúng ra hoàn toàn không nên
có mặt ở đây".
Nguồn WIKIPEDIA
02 tháng 8 2021
Shimon Peres – Tác giả, Chính khách, Tổng thống thứ 9 của Nhà nước Israel
Shimon Peres – Tác giả, Chính khách, Tổng thống thứ 9 của Nhà nước Israel
Shimon Peres (tiếng
Hebrew: שמעון פרס; tên khai sinh Szymon Perski; 2 tháng 8 năm 1923 – 28 tháng 9 năm 2016) là Tổng thống thứ 9 của Nhà nước Israel (2007 – 2014). Peres từng hai
lần giữ chức Thủ tướng Israel và một lần là Quyền Thủ tướng, suốt thập niên 70
đến thập niên 90, và từng là thành viên của 12 nội các trong sự nghiệp chính trị
kéo dài hơn 66 năm. Peres được bầu vào Knesset tháng 11 năm 1959 và, ngoại trừ
một thời gian gián đoạn ba tháng đầu năm 2006, phục vụ liên tục cho tới năm
2007, khi ông trở thành Tổng thống. Tháng 11 năm 2008 ông đã được Nữ hoàng Elizabeth II tặng danh hiệu Hiệp
sĩ danh dự.
Ra đời tại Wiszniewo, ở Ba Lan (hiện ở
Belarus) năm 1923, Peres đã cùng gia đình chuyển tới lãnh thổ Palestine Ủy trị
năm 1934. Ông đã giữ nhiều chức vụ ngoại giao và quân sự trong và trực tiếp sau
cuộc chiến tranh giành độc lập của Israel. Chức vụ cao cấp đầu tiên trong chính
phủ của ông là Thứ trưởng Quốc phòng năm 1952, và Bộ trưởng Quốc phòng năm 1953
tới năm 1959. Trong sự nghiệp của mình, ông đã đại diện cho năm đảng chính trị
trong Knesset: Mapai, Rafi, Liên kết, Công Đảng và Kadima, và đã từng lãnh đạo
Liên kết và Công Đảng. Peres đã giành Giải Nobel Hoà bình năm 1994 cùng với Yitzhak Rabin và Yasser Arafat vì những cuộc đàm phán hoà bình ông tham gia với tư
cách Bộ trưởng Ngoại giao Israel, dẫn tới Hiệp định Oslo. Đầu năm 2007 Peres được
Kadima đề cử chạy đua trong cuộc bầu cử tổng thống, và được Knesset bầu làm tổng
thống ngày 13 tháng 6 năm 2007 và đã tuyên thệ trở thành cựu Thủ tướng đầu tiên
được bầu làm Tổng thống Israel ngày 15 tháng 7 năm 2007 với nhiệm kỳ bảy năm.
Những năm đầu tiên
Peres sinh ngày 2 tháng 8 năm 1923 tại Wiszniewo, Ba Lan (nay là Višnieva, Belarus),
con của Yitzhak (1896-1962) và Sara (sinh năm 1905 tên khi sinh Meltzer) Perski.
Gia đình này nói tiếng Hebrew, Yiddish và tiếng Nga ở nhà, và Peres đã học tiếng
Ba Lan ở trường. Hiện ông nói tiếng Anh và tiếng Pháp ngoài tiếng Hebrew. Cha
ông là một nhà buôn gỗ, sau này mở rộng sang cả các mặt hàng khác còn mẹ ông là
một nhân viên thư viện. Peres có một người em trai, Gershon.
Ông của Peres, Rabbi Zvi Meltzer, một
người cháu của Rabbi Chaim Volozhin, có ảnh hưởng lớn tới cuộc đời ông. Trong một
cuộc phỏng vấn, Peres đã nói: "Khi còn trẻ, tôi lớn lên trong ngôi nhà của
ông tôi… chính ông đã dạy dỗ tôi… ông tôi đã dạy tôi Talmud. Nó không dễ dàng
như vẻ ngoài của nó đâu. Chúng tôi không phải là một gia đình theo đạo. Cha mẹ
tôi không phải là tín đồ Chính thống nhưng tôi là Haredi. Ở một thời điểm, tôi
đã nghe cha mẹ mình nghe đài về Sabbath và tôi đã phá huỷ nó."
Ông học tại The New School ở Greenwich Village, Thành phố New York.
Ủy trị Anh
Năm 1932, cha Peres di cư tới
Palestine và định cư tại Tel Aviv. Gia đình đi theo ông năm 1934. Ông theo học
Trường Tiểu học Balfour và Trường Trung học, và Geula Gymnasium (Trường Cao đẳng
Thương mại) tại Tel Aviv. Khi lên 15, ông chuyển sang trường nông nghiệp Ben
Shemen và sống tại Kibbutz Geva trong nhiều năm. Peres là một trong những người
sáng lập Kibbutz Alumot. Năm 1941 ông được bầu làm thư ký của Hanoar Haoved
Vehalomed, một phong trào thanh niên Lao động Zionist, và vào năm 1944 quay trở
về Alumot, nơi ông làm việc như một người nông dân chăn nuôi bò sữa, cừu và thư
ký của kibbutz (khu định cư Do Thái).
Đời sống cá nhân
Năm 1945, Peres cưới Sonya (tên khi
sinh Gelman), người luôn muốn sống bên ngoài con mắt của công chúng trong suốt
sự nghiệp chính trị của ông. Họ có ba con: một con gái, Zvia Valdan, một nhà
ngôn ngữ học và giáo sư tại Trường Sư phạm Beit Berl; và hai con trai, Yoni
(sinh năm 1952), giám đốc một Trung tâm Thú y Làng, một bệnh viện thú y tại
campus của Trường Nông nghiệp Kfar Hayarok gần Tel Aviv, và Hemi, chủ tịch
Pitango Venture Capital, một trong những quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất Israel. Peres
có 8 cháu và hai chắt. Sonya Peres không thể tham gia lễ nhậm chức của Shimon
vì sức khoẻ kém. Peres là một người cháu của nữ diễn viên Lauren Bacall (tên khi sinh Betty Joan Perski).
Quân đội và Quốc phòng
Shimon
Peres nói chuyện với Donald Rumsfeld. Đại sứ Israel tại Hoa
Kỳ David Ivry (ở giữa) gia nhập cuộc trò chuyện với họ.
Năm 1947, Peres gia nhập Haganah, tiền
thân của Các lực lượng phòng vệ Israel. David Ben-Gurion phân công ông chịu
trách nhiệm về nhân sự và mua bán vũ khí. Năm 1952, ông được chỉ định làm Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng, và vào năm 1953, ở độ tuổi 29, trở thành Bộ trưởng trẻ nhất
của Bộ Quốc phòng. Ông đã tham gia vào những vụ mua bán vũ khí và thành lập các
liên minh chiến lược có vai trò quan trọng với Nhà nước Israel. Nhờ sự trung
gian của Peres, Israel đã mua được loại máy bay phản lực chiến đấu Dassault Mirage
III hiện đại của Pháp, thành lập lò phản ứng hạt nhân Dimona và tham gia một
thoả thuận ba bên với Pháp và Anh Quốc để dẫn tới cuộc Khủng hoảng Suez năm
1956.
Sự nghiệp chính trị
Những bước đầu tiên trong chính trị
Peres lần đầu được bầu vào Knesset trong
cuộc bầu cử năm 1959, như một thành viên của đảng Mapai. Ông được trao vai trò
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, chức vụ ông đảm nhiệm tới năm 1965. Peres và Dayan đã
rời Mapai với David Ben-Gurion để thành lập một đảng mới, Rafi giải hoà với
Mapai và gia nhập Liên kết (một liên minh cánh tả) năm 1968.
Các cột mốc chính trị trong thập niên 1970
Năm 1969, Peres được chỉ định làm Bộ
trưởng Thu hút Người nhập cư và vào năm 1970 trở thành Bộ trưởng Giao thông và
Viễn thông. Năm 1974, sau một giai đoạn làm Bộ trưởng Thông tin, ông được chỉ định
làm Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ của Yitzhak Rabin, và trở thành đối thủ
hàng đầu của Rabin cho chức vụ thủ tướng sau khi Golda Meir từ chức sau cuộc
Chiến tranh Yom Kippur. Trong thời gian này, Peres tiếp tục đối đầu với Rabin để
giành chức chủ tịch đảng, nhưng vào năm 1977, ông một lần nữa thua cuộc trước
Rabin trong cuộc bầu cử của đảng.
Peres kế vị Rabin trở thành lãnh đạo
đảng trước cuộc bầu cử năm 1977 khi Rabin rút lui trước một vụ scandal ngoại tệ
liên quan tới vợ ông. Bởi Rabin không thể từ chức một cách hợp pháp khỏi chính
phủ chuyển tiếp, ông vẫn chính thức là Thủ tướng, trong khi Peres một cách
không chính thức trở thành Quyền Thủ tướng. Peres đã lãnh đạo Liên kết tới thất
bại bầu cử đầu tiên của họ, khi đảng Likud dưới sự lãnh đạo của Menachem Begin
giành đủ số ghế để thành lập một liên minh trục xuất cánh tả. Sau chỉ một tháng
cầm quyền, Peres nắm vai trò lãnh đạo đảng đối lập.
Các cột mốc chính trị thập niên 1980
Sau một kế hoạch quay trở lại của
Rabin năm 1980 Peres đã lãnh đạo đảng tới một thất bại bầu cử sít sao khác
trong cuộc bầu cử năm 1981.
Năm 1984, Liên kết giành nhiều ghế
hơn bất kỳ đảng nào khác nhưng không tập hợp được đa số 61 ghế cần thiết để
thành lập một liên minh cánh tả. Vì thế, Liên kết và Likud đồng ý với một sự sắp
xếp "thay đổi" bất thường theo đó Peres sẽ là Thủ tướng và lãnh đạo
Likud Yitzhak Shamir sẽ là Bộ trưởng Ngoại giao.
Một điểm nhấn ở thời kỳ làm thủ tướng
này là chuyến đi tới Maroc để bàn bạc với Vua Hassan II.
Luân phiên với Shamir
Sau hai năm, Peres và Shamir thay đổi
vị trí. Năm 1986 ông trở thành Bộ trưởng Ngoại giao. Năm 1988, Liên kết dưới sự
lãnh đạo của Peres chịu một thất bại sít sao khác. Ông đã đồng ý tái lập liên
minh với Likud, lần này nhường chức thủ tướng cả nhiệm kỳ cho Shamir. Trong
chính phủ thống nhất quốc gia giai đoạn 1988-1990, Peres làm Phó thủ tướng và Bộ
trưởng Tài chính. Ông và Liên kết cuối cùng rời chính phủ năm 1990, sau
"trò bịp bợm bẩn thỉu" – Một âm mưu bất thành để hình thành một chính
phủ suýt soát dựa trên một liên minh của Liên kết, các phái cánh tả nhỏ và các
đảng chính thống cực đoan.
Các cột mốc chính trị thập niên 1990
Từ năm 1990, Peres lãnh đạo phe đối lập
trong Knesset, cho tới đầu năm 1992, ông bị đánh bại trong cuộc bầu cử sơ bộ đầu
tiên của Công Đảng mới của Israel (đã được thành lập sau khi củng cố Liên kết
vào một đảng thống nhất duy nhất) bởi Yitzhak Rabin, người ông đã thay thế mười
lăm năm trước đó.
Tuy nhiên, Peres vẫn hoạt động chính
trị tích cực, làm Bộ trưởng Ngoại giao của Rabin từ năm 1992 và không có sự
giám sát của Rabin, bắt đầu những cuộc đàm phán bất hợp pháp bí mật với tổ chức
PLO của Yasser Arafat. Khi Rabin phát hiện, ông để các cuộc đàm phán tiếp tục.
Các cuộc đàm phán đã dẫn tới Hiệp định Oslo, sẽ mang lại cho Peres, Rabin và
Arafat Giải Nobel Hoà bình.
Sau vụ ám sát Rabin năm 1995, Peres một
lần nữa trở thành Thủ tướng. Trong nhiệm kỳ này, Peres đã khuyến khích sử dụng
Internet tại Israel và tạo lập website đầu tiên của thủ tướng Israel. Tuy
nhiên, ông lại bị đánh bại sít sao bởi Benjamin Netanyahu trong cuộc bầu cử thủ
tướng trực tiếp đầu tiên năm 1996.
Năm 1997 ông không tìm cách tái tranh
cử chức lãnh đạo Công Đảng và bị thay thế bởi Ehud Barak. Barak cự tuyệt nỗ lực
của Peres nhằm lấy lại chức vụ chủ tịch đảng và ngay khi thành lập một chính phủ
năm 1999 đã chỉ định Peres giữ một chức nhỏ là Bộ trưởng Hợp tác Vùng. Peres ít
đóng vai trò trong chính phủ của Barak.
Các cột mốc chính trị thập niên 2000
Năm 2000 Peres chạy đua cho một nhiệm
kỳ 7 năm vào chức vụ Tổng thống, một chức vụ nguyên thủ quốc gia mang tính nghi
lễ, thường cho phép lựa chọn Thủ tướng. Nếu ông thắng, như mọi người dự đoán,
ông sẽ trở thành cựu thủ tướng đầu tiên được bầu làm Tổng thống. Tuy nhiên, ông
thua cuộc trước ứng cử viên đảng Likud Moshe Katsav.
Sau thất bại của Ehud Barak trước
Ariel Sharon trong cuộc bầu cử thủ tướng trực tiếp năm 2001, Peres một lần nữa
quay trở lại. Ông lãnh đạo Công Đảng tham gia một chính phủ thống nhất với đảng
Likud của Sharon và giành được ghế Bộ trưởng Ngoại giao. Chức vụ lãnh đạo đảng
chính thức được chuyển cho Binyamin Ben-Eliezer, và vào năm 2002 cho thị trưởng
Haifa, Amram Mitzna. Peres đã bị cánh tả chỉ trích nhiều vì bám riết lấy chức vụ
Bộ trưởng Ngoại giao của mình trong một chính phủ không được coi là thúc đẩy tiến
trình hoà bình, dù ông có lập trường ủng hộ hoà bình. Ông chỉ rời chức vụ khi
Công Đảng rút lui trước cuộc bầu cử năm 2003. Sau khi đảng dưới sự lãnh đạo của
Mitzna chịu một thất bại bầu cử nặng nề, Peres một lần nữa nổi lên như một nhà
lãnh đạo lâm thời. Ông lãnh đạo đảng vào một liên minh với Sharon một lần nữa
vào cuối năm 2004 khi ông này ủng hộ việc "rút lui" khỏi Gaza đệ
trình một chương trình ngoại giao mà Công Đảng có thể ủng hộ.
Shimon Peres (2007)
Peres giành chức chủ tịch Công Đảng
năm 2005, trước cuộc bầu cử năm 2006. Với tư cách lãnh đạo đảng, Peres muốn
hoãn cuộc bầu cử càng lâu càng tốt. Ông tuyên bố rằng một cuộc bầu cử sớm sẽ huỷ
hoại cả kế hoạch rút quân khỏi Gaza vào tháng 9 năm 2005 và vị thế của Công Đảng
trong một chính phủ đoàn kết quốc gia với Sharon. Tuy nhiên, đa số đòi một ngày
sớm hơn, bởi các thành viên trẻ trong đảng, trong số đó có Ophir Pines-Paz và
Isaac Herzog, đã vượt qua các nhà lãnh đạo cũ như Binyamin Ben-Eliezer và Haim
Ramon, trong cuộc bỏ phiếu trong đảng để phân chia các chức vụ trong chính phủ.
Cuối cùng hoá ra cuộc bầu cử không thể được tổ chức vào tháng 6, như đã lập kế
hoạch, khi một scandal nổ ra về sự gian lận có thể có trong việc đăng ký thành
viên. Cuộc điều tra vụ việc này đã làm trì hoãn cuộc bầu cử tới tận ngày 9
tháng 11 năm 2005.
Trước và sau sự chậm trễ, Peres liên
tục dẫn đầu trong các cuộc thăm dò, bác bỏ những dự đoán rằng những đối thủ sẽ
vượt qua ông. Những trao đổi nhỏ của ông với các đối thủ bắt đầu khi cựu thủ tướng
Barak bắt đầu ủng hỗ việc tổ chức những cuộc bầu cử sơ bộ đầu năm đó, bởi Amir
Peretz và Haim Ramon, hai thành viên nghị viện kiên quyết chống Barak, muốn ủng
hộ Peres với bất kỳ giá nào để đánh bại Barak. Trong một sự thay đổi kỳ cục của
các sự kiện, Peretz nhanh chóng tuyên bố tư cách ứng viên của mình, một hành động
bị Peres coi là sự phản bội lớn nhất.
Dù Peres tiếp tục có những lời tranh
cãi bẩn thỉu với Barak trên báo chí, mối thù địch của ông với Peretz nhanh
chóng vượt qua nó, đặc biệt khi Barak rút lui khỏi cuộc đua đầu tháng 10. Một
trong những cáo buộc chính của Peretz chống lại Peres là ông đã không chú trọng
các vấn đề kinh tế xã hội khi còn ở trong chính phủ Sharon, và đã không hoàn
thành cam kết của mình rằng Công ĐẢng đã gia nhập liên minh với ý định duy nhất
là giám sát sự rút quân khỏi Gaza. Peres thua trong cuộc bầu cử lãnh đạo đảng với
40% so với 42.4% của Peretz.
Gia nhập Kadima
Ngày 30 tháng 11 năm 2005 Peres thông
báo rằng ông đã rời Công Đảng để ủng hộ Ariel Sharon và đảng Kadima mới của ông
này. Ngay sau cơn đột quỵ của Sharon đã có dự đoán rằng Peres có thể sẽ lãnh
vai trò lãnh đạo đảng, nhưng hầu hết các lãnh đạo cao cấp của Kadima, từng là
các thành viên cũ của Likud và tuyên bố ủng hộ Ehud Olmert làm người kế vị Sharon.
Công Đảng được thông báo là đã tìm
cách lôi kéo Peres trở lại. Tuy nhiên, Peres đã thông báo rằng ông ủng hộ
Olmert và sẽ ở lại với Kadima. Các thông báo truyền thông cho rằng Ehud Olmert đã đề nghị trao vị trí thứ
hai trong Kadima cho Peres, nhưng các vị trí không quan trọng trong nội các cho
những người được cho là đã được cho là đề nghị với Tzipi Livni. Peres trước đó đã thông báo ý định không tham gia cuộc
bầu cử tháng 3. Sau thắng lợi của Kadima trong cuộc bầu cử này, Peres được trao
vai trò Phó thủ tướng và Bộ trưởng Phát triển Negev, Galilee và Kinh tế Vùng.
Tổng thống Israel
Ngày 13 tháng 6 năm 2007, Peres được
Knesset bầu làm Tổng thống Nhà nước Israel. 58 trong 120 thành viên Knesset bỏ
phiếu cho ông ở vòng một (trong khi 38 bỏ phiếu cho Reuven Rivlin, và 21 cho
Colette Avital). Các đối thủ của ông sau đó ủng hộ Peres ở vòng hai và 86 thành
viên Knesset bỏ phiếu cho ông, trong khi 23 phản đối. Ông đã từ chức thành viên
Knesset cùng trong ngày hôm ấy, nơi ông đã là một thành viên từ năm 1959 (ngoại
trừ trong một giai đoạn ba tháng đầu năm 2006), thời gian phục vụ lâu nhất
trong lịch sử chính trị Israel. Peres tuyên thệ nhậm chức Tổng thống ngày 15
tháng 7 năm 2007.
Tháng 11 năm 2008 Peres nhận được
danh hiệu hiệp sĩ danh dự của Order of St. Michael and St. George từ Nữ hoàng Elizabeth II tại Điện
Buckingham ở London.
Các quan điểm chính trị
Peres một thời từng bị coi là một
chính trị gia diều hâu. Ông là một người được bảo trợ của Ben-Gurion và Dayan
và từng là một người ủng hộ những người định cư ở Bờ Tây ngay từ thập kỷ 1970.
Tuy nhiên, sau khi trở thành lãnh đạo đảng quan điểm của ông đã phát triển. Gần
đây hơn ông đã được coi là một chính khách bồ câu, và là một người ủng hộ mạnh
mẽ cho quan điểm hoà bình thông qua hợp tác kinh tế. Tuy vẫn phản đối, như nhiều
lãnh đạo Israel chính thống trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, việc
đàm phán với PLO, ông đã tách biệt khỏi những người định cư và nói về sự cần
thiết của "thoả hiệp lãnh thổ" với Bờ Tây và Dải Gaza. Trong một thời
gian ông đã hy vọng rằng Vua Hussein
của Jordan có thể trở thành đối tác đàm phán Ả Rập của Israel chứ không phải là
Yasser Arafat. Peres đã bí mật gặp gỡ
với Hussein tại London năm 1987 và đạt tới một thoả thuận khung với ông này,
nhưng nó đã bị Thủ tướng Israel khi đó là Yitzhak Shamir bác bỏ. Ngay sau khi
cuộc Intifada lần thứ nhất diễn ra, và bất kỳ khả năng nào Vua Hussein có như một
đối tác tiềm năng của Israel trong việc giải quyết số phận của Bờ Tây đã tan biến.
Sau đó, Peres dần chuyển sang ủng hộ những cuộc đàm phán với PLO, dù ông tránh
đưa ra cam kết dứt khoát với chính sách này cho tới tận năm 1993.
Peres có lẽ liên kết chặt chẽ nhất với
Hiệp định Oslo hơn bất kỳ một chính trị gia nào khác của Israel (gồm cả Rabin)
có lẽ chỉ ngoại trừ người được ông bảo trợ, Yossi Beilin. Ông vẫn là một người
kiên quyết ủng hộ Hiệp định Oslo và Chính quyền Palestine bởi sự khởi đầu của
chúng dù có cuộc Intifada lần thứ nhất và al-Aqsa Intifada (Intifada lần thứ
hai). Tuy nhiên, Peres đã ủng hộ chính sách quân sự của Ariel Sharon sử dụng Các lực lượng phòng vệ Israel để ngăn cản các
vụ đánh bom tự sát.
Thông thường, Peres hành động như một
"người phát ngôn" không chính thức của Israel (thậm chí khi ông đang
đứng đối lập) bởi ông có uy tín cao và được cộng đồng ngoại giao và công chúng
thế giới tôn trọng. Peres ủng hộ chính sách an ninh của Israel (các chiến dịch
quân sự chống khủng bố và hàng rào Bờ Tây của Israel) chống lại những chỉ trích
quốc tế và những nỗ lực lên án nó của những người ủng hộ Palestine.
Chính sách ngoại giao của Peres là
duy thực. Ví dụ, để xoa dịu Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia Hồi giáo trong vùng với lịch
sử thân thiện với Israel, Peres được cho là đã công khai bác bỏ vụ diệt chủng
Armenia. Gọi những cáo buộc diệt chủng của người Armenia là "vô
nghĩa," Peres còn nói thêm, "Chúng tôi bác bỏ những nỗ lực tạo lập một
sự tương tự giữa Holocaust và những cáo buộc của Armenia. Không có gì giống với
Holocaust từng diễn ra. Đó là một bi kịch mà người Armenia đã phải trải qua
nhưng nó không phải là một vụ diệt chủng." Bộ Ngoại giao Israel, khi đề cập
tới những tranh cãi do những phát biểu đó gây ra, sau này cho rằng Peres đã bị
trích dẫn sai, và rằng ông "hoàn toàn không nói, như các cơ quan truyền
thông Thổ Nhĩ Kỳ cho là như vậy, 'Cái người Armenia đã trải qua là một thảm kịch,
không phải là một vụ diệt chủng.'"
Peres và Iran
Về vấn đề chương trình hạt nhân của
Iran và mối đe doạ hiện hữu đặt ra với Israel, Peres nói, "Tôi không ủng hộ
một cuộc tấn công quân sự vào Iran, nhưng chúng ta phải nhanh chóng và kiên quyết
tạo lập một liên minh các quốc gia mạnh và sẵn sàng để áp đặt những biện pháp cấm
vận kinh tế mạnh với Iran." Ông thêm, "Các nỗ lực của Iran nhằm hoàn
thành các vũ khí hạt nhân sẽ khiến cả thế giới không thể ngủ yên." Cũng
trong bài phát biểu đó, Peres đã so sánh Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad và lời kêu gọi "xoá bỏ Israel khỏi bản đồ"
với những lời đe doạ diẹt chủng với người Do Thái ở châu Âu của Adolf Hitler trong những năm trước cuộc
Holocaust. Trong một bài phỏng vấn với Đài phát thanh Quân đội ngày 8 tháng 5
năm 2006 ông lưu ý rằng "tổng thống
Iran phải nhớ rằng Iran cũng có thể bị xoá khỏi bản đồ". Với lời lưu ý
này, Peres đã tạo ra những chỉ trích cứng rắn bất thường từ một nhà phân tích
trên truyền hình nhà nước Israel, Yoav Limor, về việc đề cập tới việc tiêu diệt
một quốc gia khác. "Có một sự đồng thuận lớn rằng sẽ là tốt hơn nếu Peres
không nói điều này, đặc biệt ở thời điểm hiện tại," Limor nói. "Tôi khá chắc chắn rằng Israel không muốn
thấy mình ở trong cùng hoàn cảnh điên cuồng như (Tổng thống Iran Mahmoud)
Ahmadinejad.”
Sách
Shimon Peres là tác giả mười một cuốn sách, gồm:
·
The Next Step (1965)
·
David's Sling (1970) (ISBN
0-297-00083-7)
·
And Now Tomorrow (1978)
·
From These Men: seven founders of the
State of Israel (1979) (ISBN 0-671-61016-3)
·
Entebbe Diary (1991) (ISBN
965-248-111-4)
·
The New Middle East (1993) (ISBN
0-8050-3323-8)
·
Battling for Peace: a memoir (1995)
(ISBN 0-679-43617-0)
·
For the Future of Israel (1998) (ISBN
0-8018-5928-X)
·
The Imaginary Voyage: With Theodor
Herzl in Israel (1999) (ISBN 1-55970-468-3)
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
[KINH SÁCH – MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH | KỲ 7] “Sách là người bạn trung thành và yên tĩnh nhất, chúng là những nhà cố vẫn dễ tiếp cận và khôn ng...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Ông là chuyên gia tư vấn thương hiệu, đồng thời là bậc thầy thiết kế chương trình và đào tạo chuyên nghiệp các kỹ năng mềm trong kinh ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia