16 tháng 8 2024
04 tháng 1 2024
Nguyễn Phúc Bảo Long - Hoàng thái tử cuối cùng của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam - Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Nguyễn Phúc Bảo Long - Hoàng thái tử cuối cùng của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam - Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
16 tháng 6 2023
Thiệu Trị – là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn nước Đại Nam – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Thiệu Trị – là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn nước Đại Nam – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Thiệu Trị – là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn nước Đại Nam – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Thiệu Trị Đế Nguyễn Hiến Tổ |
|
MỤC LỤC |
THÔNG TIN |
Sinh |
16
tháng 6 năm 1807 Huế,
Đại Nam |
Mất |
4
tháng 11, 1847 (40 tuổi) Huế,
Đại Nam |
An
táng |
24
tháng 6 năm 1848 Xương
Lăng, Huế, Đại Nam |
Phi
hậu |
Nghi Thiên Chương Hoàng hậu cùng
nhiều phi tần khác |
Tên
húy |
Nguyễn
Phúc Miên Tông (阮福綿宗) Nguyễn
Phúc Tuyền (阮福暶) Nguyễn
Phúc Dung (阮福曧) |
Niên
hiệu |
Thiệu Trị (紹治): 1841 – 1847 |
Thụy
hiệu |
Thiệu
Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Trị Vũ Công Thánh
Triết Chương Hoàng đế 紹天隆運至善純孝寬明睿斷文治武功聖哲章皇帝 |
Miếu
hiệu |
Hiến
Tổ (憲祖) |
Hoàng
tộc |
Hoàng triều Nguyễn |
Hoàng
gia ca |
Đăng đàn cung |
Thân
phụ |
Nguyễn
Thánh Tổ Minh Mạng |
Thân
mẫu |
Tá
Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa |
Tôn
giáo |
Nho
giáo, Phật giáo |
Hoàng đế Đại Nam |
|
Trị
vì |
11
tháng 2 năm 1841 – 4
tháng 11 năm 1847 (6
năm, 235 ngày) |
Tiền
nhiệm |
Minh Mạng |
Kế
nhiệm |
Tự Đức |
Thiệu Trị (chữ
Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là Nguyễn Phúc Dung (阮福曧), sau cải thành Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn
nước Đại Nam. Ông kế vị vua cha là Minh
Mạng, trị vì từ năm 1841 đến khi qua đời, tổng cộng gần 7 năm, được truy
tôn miếu hiệu là Hiến Tổ (憲祖), thụy hiệu Thiệu Thiên Chương Hoàng Đế (紹天章皇帝).
Trong thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là Thiệu Trị nên thường được
gọi theo tên này.
Thiệu Trị được
sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác
Nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không đưa ra cải cách gì mới, chỉ
duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự... từ
thời Minh Mạng. Khi Thiệu Trị lên ngôi, chính sách bành trướng của Minh Mạng đã
khiến lãnh thổ Đại Nam đạt đến mức rộng nhất trong lịch sử. Đại Nam đô hộ vùng
đông nam Chân Lạp, đặt ra Trấn Tây Thành nhưng sự hà khắc của quan quân Việt đã
gây nên sự căm phẫn và nổi dậy liên miên của người Chân Lạp, chi phí quân sự
khiến quốc khố ngày càng cạn kiệt. Thiệu Trị phải xuống lệnh rút quân khỏi Trấn
Tây Thành. Liên quân Xiêm La-Chân Lạp nhân đó đánh phá biên giới Tây Nam, Thiệu
Trị sai nhiều tướng giỏi như Lê Văn Đức,
Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn,... mang quân chống lại. Quân Đại Nam đánh bại
Xiêm La rồi truy kích vào đất Chân Lạp, nhưng đất Trấn Ninh thì đã bị Xiêm La
chiếm mất. Năm 1845, Đại Nam và Xiêm La ký hòa ước chia nhau quyền bảo hộ Chân
Lạp, vùng biên phía Tây cuối cùng đã được tạm yên, nhưng cũng từ đây quá trình
mở rộng lãnh thổ của người Việt bị dừng lại, lãnh thổ Đại Nam cũng bị thu hẹp
khá nhiều so với thời Minh Mạng.
Sau khi kết thúc chiến tranh với Xiêm
La, Thiệu Trị phải đương đầu với mối đe dọa xâm lược càng lúc càng gia tăng từ
Pháp. Đỉnh điểm là trận cửa biển Đà Nẵng (1847) khi quân thuyền Pháp bắn chìm 5
chiếc thuyền đồng của thủy quân Đại Nam. Thất bại này khiến hoàng đế hết sức tức
giận và lo lắng, nhưng cho đến khi chết, Thiệu Trị và quần thần vẫn không thể
tìm ra phương sách hợp lý để đối phó. 10 năm sau cái chết của Thiệu Trị (1858),
Pháp nổ súng xâm lược Đại Nam, mở đầu thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận – www.danhnhan.net
cập nhật
22 tháng 2 2023
Lý Nhân Tông – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam – Hoàng đế thứ tư của Nhà Lý trong Lịch sử Việt Nam
Lý Nhân Tông – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam – Hoàng đế thứ tư của Nhà Lý trong Lịch sử Việt Nam
Tượng Lý Nhân Tông tại Văn Miếu Quốc Tử Giám |
MỤC LỤC |
THÔNG
TIN |
Hoàng
đế Đại Việt |
Nhân
vật Hoàng Gia Việt Nam |
Trị vì |
1 tháng 2 năm 1072 – 15 tháng 1 năm 1128 55 năm, 348 ngày |
Nhiếp chính |
Thái hậu Linh Nhân Lý Đạo Thành Lý Thường Kiệt |
Tiền nhiệm |
Lý Thánh Tông |
Kế nhiệm |
Lý Thần Tông |
Sinh |
22 tháng 2, 1066 Cung Động Tiên, Thăng Long |
Mất |
15 tháng 1, 1128 (61 tuổi) Điện Vĩnh Quang, Thăng Long |
An táng |
Lăng Thiên Đức |
Tên húy |
Lý Càn Đức (李乾德) |
Niên hiệu |
Thái Ninh (1072-1076) Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) Quảng Hựu (1085-1092) Hội Phong (1092-1100) Long Phù (1101-1109) Hội Tường Đại Khánh (1110-1119) Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126) Thiên Phù Khánh Thọ (1127-1127) |
Tôn hiệu |
Hiếu
Thiên Thể Đạo Thánh Văn Thần Vũ Sùng Nhân Ý Nghĩa Hiếu Từ Thuần Thành Minh Hiếu
Hoàng Đế (憲天體道聖文神武崇仁懿義純誠明孝皇帝) |
Thụy hiệu |
Hiếu Từ Thánh Thần Văn Vũ Hoàng Đế (孝慈聖神文武皇帝) |
Miếu hiệu |
Nhân Tông (仁宗) |
Triều đại |
Nhà Lý |
Thân phụ |
Lý Thánh Tông |
Thân mẫu |
Linh Nhân Hoàng thái hậu |
Tôn giáo |
Phật giáo |
Lý Nhân Tông (chữ
Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của
nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128, tổng
cộng gần 56 năm, cũng là vị vua có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử
phong kiến Việt Nam.
Ông
tên thật là Càn Đức, là con trai đầu
lòng của Lý Thánh Tông. Năm 1072, Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức mới 6 tuổi
lên ngôi tức vua Nhân Tông. Mẹ đích của Nhân Tông là Thượng Dương Thái hậu cùng
Thái sư Lý Đạo Thành phụ chính. Sau này, Nhân Tông nghe lời mẹ ruột là Thái phi
Linh Nhân, bắt Thái hậu Thượng Dương chôn theo vua Thánh Tông. Từ đây, Linh
Nhân Thái hậu và Thái úy Lý Thường Kiệt nắm việc triều chính; hai người này biếm
Lý Đạo Thành vào miền Nam một thời gian rồi phục chức. Thái hậu Linh Nhân cùng
các tể thần Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành có ảnh hưởng lớn tới việc nước ngay cả
khi Nhân Tông trưởng thành.
Dưới
thời trị vì của Nhân Tông, nước Việt phồn vinh, "dân được giàu
đông".[1] Ông rất quan tâm đến nông nghiệp – thủy lợi, đã cho đắp đê ở nhiều
nơi và mở rộng luật cấm giết trâu. Thời Nhân Tông còn nổi bật với việc tổ chức
khoa thi Nho học đầu tiên của Đại Việt (1075) và xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử
Giám (1076). Phật giáo cũng phát triển; nhà vua và mẹ là Linh Nhân đều là những
Phật tử mộ đạo, đã cho xây nhiều chùa tháp và khuyến khích việc hành đạo của
các thiền sư. Về đối ngoại, năm 1075, đế quốc Tống dòm ngó Đại Việt, Nhân Tông
sai Lý Thường Kiệt đi đánh, liên tiếp phá tan quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm,
Liêm (đất Tống) và sông Như Nguyệt (đất Việt). Sau năm 1077, giữa Việt và Tống
không còn cuộc chiến lớn nào. Trong khi đó các nước Chiêm Thành, Chân Lạp thần
phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống.
Tuy ở
ngôi lâu năm, Lý Nhân Tông không có con trai để nối dõi. Ông nhận nuôi một người
cháu là Lý Dương Hoán rồi lập làm thái tử. Đó là Lý Thần Tông, làm vua trong
vòng 11 năm sau khi Nhân Tông mất.
Thời
đại của Lý Nhân Tông cùng với ông nội là Lý Thái Tông và cha là Lý Thánh Tông
được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế (百年盛世).
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận – www.danhnhan.net
23 tháng 8 2022
Nguyễn Phúc Miên Liêu – Hoàng Tử con Vua Minh Mạng – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Nguyễn Phúc Miên Liêu – Hoàng Tử con Vua Minh Mạng – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Nguyễn Phúc Miên Liêu (chữ Hán: 阮福綿寮; 23 tháng 8 năm 1824 – 1881), tước phong Quỳ Châu Quận
công (葵州郡公), là một hoàng tử con vua Minh
Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng tử Miên Liêu sinh ngày 29 tháng 7 (âm lịch) năm Giáp Thân (1824), là con trai thứ 29
của vua Minh Mạng, mẹ là Cung tần Lê
Thị Tường, con gái quan Hậu quân Lê Chất.
Theo bản hạch tội Lê Chất của Tả Thị
lang Lê Bá Tú thì Chất mong muốn con gái mình chính vị trung cung nhưng không
được chấp thuận. Do cha có tội nên bà Tường bị phế làm thứ nhân, giam cầm cho đến
khi chết.
Hoàng tử Miên Liêu lúc trẻ thông
minh, khi ra ở phủ riêng lại dốc chí ham học, thông khắp các kinh điển, có tiếng
thơ hay. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban
thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử công và hoàng tử chưa được phong
tước. Hoàng tử Miên Liêu được ban cho một con hổ bằng vàng nặng 6 lạng 8 đồng
cân.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông được phong làm Quỳ Châu Quận công (葵州郡公).
Tháng 2 (âm lịch) năm 1854, khi vua Tự Đức
thăm nhà Thái học, ông theo hầu và ứng chỉ làm 8 bài ca “Vua thăm nhà học”. Khi đem những bài thơ trình lên, vua rất khen ngợi
cho chép vào tập thơ Tích Ung Canh Ca hội tập. Các bài thơ ấy có lời rằng:
Bài I: Nay hoàng đế ta, có cả nước đức ngang với đạo
quẻ Kiền, sánh với đạo quẻ Ly, sáng Nam tỏ lên ngôi ở giữa, làm vua làm thầy,
làm khuôn phép cho dân, chăm giáo hóa, đào tạo người hiền, bắt chước điển xưa.
Bài II: Năm là năm Dần, ngày là ngày Đính. Tiên triết
đức lớn, cử hành lễ đế. Xe vua sớm đến ngự, tiếng nhạc ngựa sang sảng. Thuyền rồng
đi thong thả, cờ nghê sớm tối.
Bài III: Trông lên núi Ni Sơn cung tường chót vót. Đồ
thơ nghiêm chỉnh, trống chuông khua vang. Kính lễ chẳng trái, rực rỡ ánh hoàng.
Được thần cảm cách, phảng phất anh linh.
Bài IV: Bèn dựng nhà học, xe ngọc lộ đến đó, đồ lộ bộ
sâm nghiêm các thứ cờ dàn quanh, giá trống giá chuông, các đồ nhạc đầy đủ, các
quan đến sắp hàng đông như mây tụ, các học trò áo xanh đều đến cả.
Bài V: Bèn đặt nơi dạy học làm nhà chứa sách, bên tả
để kinh, bên hữu để truyện, kính theo thánh huấn. Đạo "trung", đạo
"nhất" rất hợp lòng vua, phát minh chỗ còn lờ mờ, tìm ra lẽ huyền bí.
Đức tốt rõ ràng.
Bài VI: Sắc mặt tiếng cười như mùa xuân ấm áp, lời dạy
bảo rõ ràng như sao sáng. Đức tốt chẳng thôi làm thành lời ca ngợi. Tình tứ của
các vị Chu, Khổng, thánh học sâu rộng. Như ánh sáng sông Vân Hán, rực rỡ ở trên
trời.
Bài VII: Giống nòi Hồng Lạc đã nghìn năm nay, nhà học
có đã lâu đời đến thăm nhà học, nghi lễ long trọng mới bắt đầu rực rỡ từ nay,
năm Vĩnh Bình đời Hán, năm Trinh Quán đời Đường sử sách chép lại, đều như nhau
một mối.
Bài VIII: Bày đồ nhạc làm lễ hợp tế, đông đủ lũ lượt đến
dự tế, thết đãi các người khách đến dự, vui vẻ khôn siết, đã vịnh thơ Ngư tảo,
lại hát điệu Bách Lương, lớn nhỏ cúi đầu đều chúc vua "vạn thọ vô
cương".
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tháng 5 nhuận (âm lịch), thái trưởng công
chúa Ngọc Cửu mất, quận công Miên
Liêu khâm mạng đến tế. Công chúa Ngọc Cửu là em gái của vua Minh Mạng, là cô của
vua Thiệu Trị.
Năm Tự Đức thứ 34 (1881), quận công Miên Liêu qua đời, thọ 58 tuổi, thụy
là Cung Lượng (恭亮). Mộ của ông được táng tại An Cựu (Hương Thủy, Thừa Thiên -
Huế), phủ thờ cũng dựng tại An Cựu, sau dời về Hà Lan (thuộc huyện Quảng Điền,
Huế).
Hậu duệ
Quận công Miên Liêu có 5 con trai và
9 con gái. Ông được ban cho bộ chữ Ấp (邑) để đặt tên cho các con cháu trong
phòng. Con trai thứ hai của ông là công tử Hồng Chất lúc đầu tập phong làm Kỳ
ngoại hầu (畿外侯), đến năm 1886, đổi làm Quang lộc tự thiếu khanh, lĩnh chức Hộ
lăng Phó sứ. Sau Hồng Chất mắc tội nên bị giáng 4 cấp, không được làm nữa, năm
1890 mới đổi làm Tri phủ Quảng Ninh.
Năm Thành Thái thứ 14 (1902), công tử Hồng Phố con của quận công Miên
Liêu, cùng với công tử Hồng Thứ (con của quận công Miên Tằng) và công tôn Ưng Tạo (cháu nội của quận công Miên Thanh), vì tội đào trộm mộ phần của
Quảng Ninh Quận vương Miên Mật và các phi tần công chúa triều trước nên đều bị
kết án giảo giam hậu, phải đổi sang họ mẹ, vĩnh viễn không được tha thứ (Hồng
Phố bị đổi sang họ mẹ là họ Lâm).
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
12 tháng 8 2022
Nguyễn Phúc Khuê Gia – Công chúa con Vua Minh Mạng – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Nguyễn Phúc Khuê Gia – Công chúa con Vua Minh Mạng – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Nguyễn Phúc Khuê Gia (chữ Hán: 阮福珪珈; 12 tháng 8 năm 1813 – 28 tháng 4 năm 1865), trước có tên là Chương Gia (璋珈), phong hiệu An Phú Công chúa (安富公主), là một công
chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng nữ Khuê Gia sinh ngày 17 tháng
7 (âm lịch) năm Quý Dậu (1813), là con gái thứ hai của vua Minh Mạng, mẹ là Nhất giai Hiền phi Ngô Thị Chính. Khuê Gia là người con thứ tư của bà Hiền phi. Công
chúa từ bé đã hiền lành đoan tĩnh, dễ bảo.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua gả chồng cho hai vị công chúa là Khuê
Gia và Uyển Diễm, đều là con của Hiền
phi. Công chúa Khuê Gia hạ giá lấy Phò mã Đô úy Nguyễn Văn Túc, người Tân Hòa,
Gia Định, là con trai của Tả quân Đô thống Chưởng phủ sự Lương Năng bá Nguyễn Văn Hiếu. Công chúa sinh được ba
con trai và ba con gái.
Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), phò mã Túc mất. Năm Tự Đức thứ 7 (1854), bà Khuê Gia mới được sách phong làm An Phú
Công chúa (安富公主).
Năm thứ 18 (1865), Ất Sửu, ngày 4
tháng 4 (âm lịch), công chúa Khuê Gia qua đời, thọ 53 tuổi, thụy là Trinh Tín (貞信).
Mộ của bà được táng tại Dương Xuân Thượng, nay là một phần của phường Thủy
Xuân, Huế.
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
10 tháng 8 2022
Lê Đại Hành – Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Lê Đại Hành – Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê – Nhân vật Hoàng Gia Việt Nam
Lê Hoàn (10 tháng 8 năm 941 – 18 tháng 4 năm 1005)
là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê nước Đại Cồ Việt, trị vì nước Đại Cồ Việt
trong 24 năm. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Khi còn thiếu thời ông làm quan cho
nhà Đinh dưới thời Đinh Tiên Hoàng,
đến chức Thập đạo tướng quân. Năm 979, viên quan Đỗ Thích giết vua Đinh Tiên
Hoàng và người con Đinh Liễn, người
con thứ tên Đinh Toàn nối ngôi lúc 6
tuổi, Lê Đại Hành làm Nhiếp chính, xưng là Phó vương, nắm đại quyền triều đình.
Nhà Tống lấy cớ Lê Đại Hành chuyên quyền để phát binh xâm lược Đại Cồ Việt (thực
ra đây chỉ là cái cớ, còn thực tế chiếu phát binh của vua Tống cho thấy nhà Tống
muốn khôi phục sự cai trị của mình lên nước Việt giống như thời nhà Đường).
Trước tình thế đó, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng đem binh sĩ vào cung làm
binh biến, buộc Thái hậu họ Dương (tức
mẹ Đinh Toàn) trao long cổn cho Phó
vương Lê Hoàn. Sau khi lên ngôi, Lê
Hoàn tự mình làm tướng đánh tan quân Tống, chém tướng Hầu Nhân Bảo, bắt sống tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem
về Hoa Lư, giúp cho Đại Cồ Việt thanh bình, bảo toàn được nền độc lập của đất
nước.
Hiện nay, có giả thuyết cho rằng Lê
Hoàn là chủ mưu vụ ám sát vua Đinh Tiên
Hoàng để giành ngôi vua. Giả thuyết này đúng sai không rõ vì không có bằng
chứng, nhưng việc Lê Hoàn là một vị vua giỏi và có nhiều đóng góp cho đất nước
là điều không thể phủ nhận. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn thu được nhiều thành tích
nổi bật trong việc cai trị, như việc phát triển nông nghiệp, mở trường học, tuyển
dụng nhân tài và đánh bại Chiêm Thành, đánh dẹp các tộc người ở biên giới, khiến
họ phải quy phục triều đình. Vì vậy, ông vẫn được sử sách đánh giá là một minh
quân có công trong việc xây dựng đất nước và được nhân dân ca ngợi.
Ông là nhạc phụ của Hoàng đế Lý Thái Tổ, ông ngoại của Hoàng đế Lý Thái Tông.
Thân thế
Đại Hành Hoàng đế húy là Lê Hoàn (黎桓), sinh ngày 15 tháng 7, nhằm
ngày mùng 10 tháng 8), cha là Lê Mịch (黎覔), mẹ là Đặng thị, quê hương của ông ở
đâu còn đang bị tranh cãi (xem phần tranh cãi về quê hương Lê Đại Hành).
Câu chuyện ông được sinh ra có nhuốm
màu truyền thuyết. Khi mới có thai, mẹ ông chiêm bao thấy trong bụng nở hoa
sen, chỉ chốc lát đã sinh ra Lê Đại Hành.
Trong thôn có viên quan án là Lê Đột
trông thấy lấy làm lạ, nói: "Tư cách
đứa trẻ này, người thường không sánh được", bèn nhận làm con nuôi,
chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Có đêm mùa đông trời rét, Lê Đại Hoàng
úp cối mà ngủ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan lén đến xem, thì thấy con
rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại càng thêm quý trọng Lê Hoàn.
Sự nghiệp
Lớn lên, Lê Hoàn theo giúp Nam Việt
vương Đinh Liễn, tính tình phóng
khoáng, có chí lớn. Sứ quân Đinh Bộ Lĩnh
khen là người trí dũng, chắc thế nào cũng làm được việc, bèn giao cho cai quản
1 nghìn quân sĩ.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức vua Đinh
Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo. Đinh Đế
lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ Sĩ sư,
Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Tăng thống
Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục,
Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.
Tháng 10 năm 979, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn ở sân cung. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh
Điền cùng Lê Hoàn rước Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi hoàng đế và tôn mẹ Đinh Toàn là Dương Vân Nga làm Hoàng thái hậu. Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi khi mới 6 tuổi, Lê Hoàn làm nhiếp chính đảm đương việc nước, xưng là Phó vương. Định
quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp
Đinh Điền, Phạm Hạp nghi ngờ Hoàn sẽ
làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về
Hoa Lư giết Lê Hoàn.
Lê Hoàn chỉnh
đốn quân lữ, đánh nhau với Đinh Điền,
Nguyễn Bặc ở Tây Đô, Đinh Điền, Nguyễn Bặc bỏ chạy, đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc đóng cũi đưa về kinh sư, sau đem chém. Phạm Hạp được tin, mất khí thế, chạy về
làng Cát Lợi ở Bắc Giang. Lê Hoàn đuổi
theo, bắt sống Phạm Hạp mang về kinh
sư.
Nhà Tống xuất binh
Tháng 6 năm 980, Tri châu Ung của nhà
Tống là Thái thường Bác sĩ Hầu Nhân Bảo
dâng thư khuyên hoàng đế Tống Thái Tông
nên lựa thời cơ nước Nam rối ren, vua còn nhỏ, đem quân chinh phạt. Vua Tống
nghe theo.
Tháng 7 năm 980, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châu lục lộ thủy
lộ Chuyển vận sứ, Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng, Bất tác sứ Hác Thủ Tuấn,
Yên bi khổ sứ Trần Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ
binh mã Bộ thư, Ninh Châu Thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố Phó sứ Giả Thực, Cung
phụng quan Cáp môn chi hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mã Đô bộ thư, họp
quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng sang chinh phạt nước Nam.
Lên ngôi vua
Nhận tin quân Tống chuẩn bị xâm lược,
Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi chiến đấu, lấy người Nam Sách Giang là Phạm
Cự Lạng làm Đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều
mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người: "Thưởng người có
công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn
trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công
lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử,
sau đó sẽ xuất quân thì hơn". Quân sĩ đều hô vạn tuế.
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy
phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ
đó ông lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980), giáng
phong Đinh Toàn làm Vệ vương. Lê
Hoàn còn truy phong cha làm Trường Hưng vương và mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu.
Chiến tranh với Bắc Tống (981)
Ngoại giao
Tháng 8 năm 980, vua Tống xuống chiếu
đem quân xâm lược Đại Cồ Việt, sai Lư Đa Tốn mang thư sang. Tháng 10 cùng năm,
vua Lê Hoàn sắp phát binh, sai Nha hiệu là Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ đưa
thư sang Tống giả làm thư Vệ vương Đinh Toàn thỉnh cầu Lê Hoàn nối ngôi
cha, ban cho mệnh lệnh chính thức; ý muốn hoãn binh nhà Tống.
Nhà Tống sai Trương Tông Quyền mang
thư trả lời rằng: Họ Đinh truyền nối ba đời,
trẫm muốn cho Toàn làm thống soái, khanh làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có,
vẫn còn trẻ con, thì nên bảo cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn
họ vào chầu ắt sẽ có điển lễ ưu đãi và sẽ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường,
khanh nên chọn một. Vua Lê Hoàn không nghe.
Nhà Tống liền thảo chiếu chỉ chinh phạt
Đại Cồ Việt, nội dung lời chiếu chỉ như sau:
Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất
Diên Chỉ (chỉ Đại Cồ Việt) chưa sáp nhập vào địa đồ Trung-Quốc, chúng ở một
phương, gần nơi Ngũ Lĩnh. Từ cuối đời Đường rối loạn, chia sẻ đất đai, rồi
chúng làm ra một nước tiếm ngụy, ở xa thanh giáo thành ra phong tục như đứa mù
đứa điếc. Kịp khi Phiên-Ngung đã bình định, mới ban cho chính sóc mà tuân hành,
tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ tu luyện binh lính, có ý quật
cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế? Vậy ta bất đắc dĩ phải trị tội
gian ngụy để cứu dân, phải cử binh qua đánh để khai hóa xứ mọi rợ; nay cho bọn
Tôn Toàn Hưng xuất quân qua đánh.
Diễn biến
Nhà Tống dùng Lan Châu Đoàn luyện sứ
là Tôn Toàn Hưng, Bát tắc sứ là Thích Hậu, Tả Giám môn vệ Đại tướng quân là
Thôi Lượng làm chức Lục lộ Binh mã Tổng quản, từ đường Ung Châu tiến quân; Ninh
Châu Thứ sử là Lưu Trừng, Án bí Khố sứ là Giả Thực, Cung phụng Quan Các môn Chi
hậu là Vương Soạn làm chức Thủy quân Binh mã Tổng quản do đường Quảng Châu tiến
quân. Lại dùng Ngọ Xương Duệ làm chức Tri Giao châu Hành doanh Thông tục. Hầu
Nhân Bảo chỉ huy.Nhóm Toàn Hưng từ giã; vua nhà Tống là Thái Tông lại hạ chiếu cho dẫn tiến, khiến Lương Quýnh thiết tiệc ở
vườn Ngọc Tân để tống tiễn.
Mùa thu năm 980, quân Tống khởi hành;
tháng 12 năm 980, quân Tống phá được hơn 1 vạn quân Đại Cồ Việt.
Mùa xuân, tháng 2 năm 981, Hầu Nhân Bảo,
Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng.
Vua Lê Hoàn đích thân làm tướng, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng. Sách
Việt sử tiêu án chép: Vua tự làm tướng ra chống đánh, sai sĩ tốt cắm gỗ, đầu bịt
sắt để ngăn cửa sông.
Vua Lê Hoàn đã cho xây dựng một tòa
thành có tên là Bình Lỗ để chống quân Tống. (Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn có nhắc đến thành này trong lời dặn lúc ông sắp mất:
"Ngày xưa Triệu Vũ Đế dựng nước, hoàng đế nhà Hán cho quân đánh, nhân dân
làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam,
còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê
dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu,
trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống...")
Mùa hạ năm 981, quân Tống giao chiến
với quân Việt, quân Tống chém được hơn 1000 người, bắt được hơn 200 thuyền chiến.
Phạm Cự Lạng xin Lê Hoàn rút quân tại Ba Bộ. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hầu Nhân
Bảo cùng đạo tiền quân tiến sâu vào, bị thất bại luôn. Cánh quân Tôn Toàn Hưng
do đường thủy và đường bộ tới làng Đa-La, không gặp Hầu Nhân Bảo, bèn trở về Ba
Bộ.
Vua Lê Hoàn sai quân sĩ trá hàng để dụ
Hầu Nhân Bảo, đem chém. Sách Việt sử tiêu án chép: sai người trá hàng, bắt được
Nhân Bảo. Sách An Nam chí lược chép: Lê Hoàn giả đầu hàng để dụ địch, Nhân – Bữu
bèn trúng kế mà bị hại.
Trần Khâm Tộ nghe tin quân thủy thua
trận, dẫn quân về. Vua Lê Hoàn thừa thắng đuổi đánh, quân của Khâm Tộ thua to,
chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng; bắt sống đại tướng là Quách Quân Biện,
Triệu Phụng Huân đưa về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên.
Hậu chiến
Sau chiến tranh, nước Việt an bình, bầy
tôi dâng tôn hiệu cho vua Lê Hoàn là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí
Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế. Vua sai sứ sang nhà Tống cống các đồ thổ sản và dâng
biểu tạ lỗi. Giang Nam Chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem việc
Nhân Bảo thua chết tâu lên. Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở trách
bọn Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. Trừng ốm chết, Soạn bị giết ở Ung Châu,
Tôn Toàn Hưng cũng bị giết bêu ở chợ.
Chiến tranh với Chiêm Thành
Khi người Việt nội thuộc triều đình ở
Trung nguyên thì ở phía Nam, người Chiêm Thành đã sớm xây dựng được một quốc
gia độc lập tự chủ từ năm 192. Sinh sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ hẹp và
nhỏ, vương quốc Chiêm Thành có thế mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công,
nhưng lại thiếu những miền châu thổ rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm
Thành liên tục tiến hành các hoạt động quân sự với Đại Cồ Việt. Năm 803, vua
Chiêm sai viên tướng Senapati Par đem quân xâm phạm An Nam, vây hãm phía nam quận
Cửu Chân. Năm 979, quân Chiêm được Ngô Nhật Khánh dẫn đường, tổ chức lực lượng
thủy quân hùng hậu tiến đánh Hoa Lư theo đường biển, nhưng bị tan vỡ vì gặp bão
ở cửa biển Thần Phù.
Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ
Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua Chiêm là Bê Mi Thuế (Paramesvaravarman) bắt giữ.
Lê Hoàn tức giận, sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh,
chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ nhiều vô kể,
cùng là tài nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ
quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy
tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư. Tống sử cho biết Lê Hoàn đã sai sứ
dâng 93 tù binh Chiêm Thành cho vua Tống nhằm chứng tỏ thực lực của Đại Cồ Việt.
Khi nhà vua đi đánh Chiêm, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa, đường núi hiểm trở
khó đi, bèn sai đào hải cảng mới, đào xong, công và tư đều tiện lợi.
Cũng theo Tống sử, năm 990, Lê Hoàn lại
đem quân đánh vào châu Địa Lý (Chiêm Thành), bắt được nhiều quân dân và tịch
thu nhiều của cải. Đến các năm 995 và 997, quân Chiêm kéo sang đánh phá biên giới
Đại Cồ Việt, Lê Hoàn phải cho quân đánh đuổi.
Chính quyền
Triều nhà Đinh, vua Đinh Bộ Lĩnh chia
nước làm mười đạo; Lê Hoàn lập ra nhà Tiền Lê, đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu.
Hiện không rõ các tên hiệu và vị trí của các lộ, phủ châu như thế nào, sử cũ vẫn
dùng các tên châu cũ do nhà Đường xâm lược nước Việt đặt ra. Lê Hoàn vẫn đóng
đô ở thành Hoa Lư, theo sách Cương mục Hoa Lư là sơn phận hai xã Uy Viễn và Uy
Tế, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; theo sách An Nam chí lược Hoa Lư ở huyện Lê
Bình, nay là huyện Gia Viễn. Lê Hoàn lên ngôi năm đầu, đặt các chức quan Thái
sư, Thái úy, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ. Nhà vua phong quân sư người Tống là Hồng
Hiến làm Thái sư, Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại Tổng quản tri quân
dân, Đinh Thừa Chính làm Nha nội Đô Chỉ huy sứ. Về việc quân sự, năm 986 đặt
binh Túc vệ, gọi là Thân quân, trên trán đều thích chữ Thiên Tử Quân, về sau lệ
cấm quân thích chữ ở trán, bụng, đùi bắt đầu từ đây. Năm 988, định ngũ quân,
chia tướng hiệu làm hai ban.
Lê Hoàn phong cho các con ra các trấn
địa phương; năm 989 phong cho Thái tử Thâu làm Kình Thiên Đại vương ở kinh đô
Hoa Lư; con thứ hai tên Ngân Tích làm Đông Thành vương, theo suy đoán của Đào
Duy Anh có lẽ cho đất ở phía đông kinh thành; con thứ ba tên Việt làm Nam Phong
vương. Năm 991 phong cho con thứ tư tên Đinh làm Ngự Man vương, đóng ở Phong
Châu; cho con thứ sáu là Cân làm Ngự Man vương, đóng ở trại Phù Lan (nay là xã
Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương). Năm 922 phong cho con thứ năm là Đĩnh
làm Khai Minh vương, đóng ở Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay); cho con thứ bảy là
Tung làm Định phiên vương, đóng ở thành Tử Dinh trên sông Ngũ Huyện - con sông
chảy qua các huyện Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du vào sông Cầu;
cho con thứ tám là Tương làm Phó vương, đóng ở sông Đỗ Động, tức sông Nhuệ; cho
con thứ chín là Kính làm Trung Quốc vương, đóng ở Càn Đà, huyện Liên Mạt, nay
là Tiên Lữ, Hưng Yên. Năm 994 phong cho con thứ mười hai tên Mang làm Nam Quốc
vương, đóng ở châu Vũ Lang, thuộc Thanh Hóa. Năm 995 phong cho con thứ mười một
tên Đề làm Hành Quân vương, đóng ở châu Cổ Lãm, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh, cho con
nuôi là Phù Đới vương, đóng ở Phù Đới hương, thuộc Hải Dương.
Quân sự
Ngoài các chiến thắng quân sự đối với
nhà Tống, nước Chiêm, Lê Hoàn còn phải đối phó với các cuộc phản loạn trong nước
và nhà vua thực hiện nhiều cuộc chinh phạt nhằm mở mang bờ cõi. Năm 989, vua Lê
Hoàn sai viên Quảng giáo là Dương Tiến Lộc đi thu thuế ở châu Hoan, châu Ái; Tiến
Lộc làm phản, đem người hai châu ấy xin theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành
không nhận. Lê Hoàn nghe tin, đem quân đánh châu Hoan, Ái đuổi bắt được Dương
Tiến Lộc và giết người hai châu ấy không biết bao nhiều người mà kể.
Năm 995, vua Lê Hoàn cho quân vào trấn
Như Hồng thuộc Khâm Châu (nước Tống), đánh phá cư dân, cướp bóc lương thực, rồi
bỏ đi. Mùa hạ cùng năm, vua Lê Hoàn lại dẫn 5.000 binh Tô Châu vào cướp Lộc-Châu,
thuộc huyện của Ung Châu, giao chiến với quân Tống do Tuần kiểm Dương Văn Kiệt
chỉ huy, sau đó phải trở về. Năm 996, vua Lê Hoàn đem quân đi đánh được bốn động
Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng. Tháng 7, năm 996 vua Lê Hoàn thân đi đánh quân
làm phản ở Đỗ Động Giang, bắt được đồ đảng đem về kinh sư.
Năm 999, vua Lê Hoàn thân đi đánh Hà
Động..., tất cả 49 động và phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên. Từ đó các
châu động đều quy phục. Năm 1000, Lê Hoàn xuống chiếu đi đánh người ở châu
Phong là Trịnh Hàng, Trường Lệ, Đan Trường Ôn, khiến cho nhóm người này phải chạy
vào vùng núi Tản Viên.
Năm 1001, Lê Hoàn thân đi đánh quân Cử
Long. Quân Cử Long thấy vua Lê Hoàn, giương cung nhắm bắn thì tên rơi, lại
giương cung thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút lui. Vua Lê Hoàn bèn đi thuyền
vào Cùng Giang để đuổi. Quân Cử Long bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị
hãm ở giữa sông, vua cũ nhà Đinh là Vệ vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua
Lê Hoàn kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, quân Cử Long tan vỡ. Năm 1003,
vua Lê Hoàn đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái thẳng đến Tư Củng trường ở Ái châu.
Người Đa Cái làm phản, chém đầu để rao.
Kinh tế
Lê Đại Hành khi cai trị đã cho xây dựng
nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng
đất nước. Ông là vị vua mở đầu cho lễ Tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông
nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các
vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.
Mùa xuân năm 987, vua Lê Hoàn lần đầu cày ruộng Tịch điền ở núi Đọi được một hũ
nhỏ vàng; lại cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng
Kim Ngân. Năm 1003, vua Lê Hoàn đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái thông thẳng đến
Tư Củng trường ở Ái châu.
Lê Đại Hành cũng là vị vua đầu tiên tổ
chức đào sông. Công trình đào sông Nhà Lê (hiện được nối liền 4 tỉnh Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và là một di tích lịch sử) do Lê Hoàn khởi dựng là
con đường giao thông thủy nội địa đầu tiên của Việt Nam. Sự nghiệp mở đầu vĩ đại
đó đã trở thành phương châm hành động của các thời Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn sau
này. Từ con sông đào do Lê Hoàn khai phá trên đất Thanh Hóa, đến thời Lý, Trần
sông đào đã xuất hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh-Nghệ-Tĩnh. Đến thời Lê đã rộng
khắp dải miền Trung Bộ và đến thời Nguyễn thì sông đào có mặt ở khắp mọi miền
Việt Nam.
Ngoại giao
Theo Phan Huy Chú, nước Việt ở cõi
Nam nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, bên trong xưng đế, bên ngoài xưng
vương, vẫn chịu phong hiệu của Trung Quốc. Năm 980, vua Tống sai Lư Tập đi sứ Đại
Cồ Việt, lúc này Lê Hoàn đã nắm quyền bính, đã đại diện cho Đinh Toàn để đứng
ra tiếp sứ, tiến cống châu báu, đồng thời gửi biểu nói rằng triều đình đã tự
nguyện tôn Lê Hoàn lên làm vua. Nhưng vua Tống không chịu đòi Đinh Phế Đế nắm
giữ cai trị đất Giao Chỉ, hoặc 2 mẹ con họ Đinh đến chầu Thiên triều thì Lê
Hoàn sẽ được nắm quyền cai trị. Lê Hoàn không nghe, hai bên đánh nhau, nhà Tống
thua; để giảng hòa Lê Hoàn vẫn sai sứ giả sang Trung Quốc thông hiếu. Vua Tống
sai sứ sang phong cho Lê Hoàn lần lượt các chức như Đặc Tiến, Giao Chỉ quận
vương, Nam Bình vương kiêm trị trung. Tháng 10 âm lịch năm 986, Lê Hoàn trao trả
các tướng Tống bị bắt năm 981 là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân về nước.
Về nghi thức tiếp đãi sứ giả, năm 987
nhà Tống sai Lý Giác sang Đại Cồ Việt. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua Lê
Hoàn sai Thiền sư Đỗ Pháp Thuận giả làm người chèo đò ra đón. Lý Giác vốn hay
văn thơ, ngâm một bài thơ, nhà sư cũng họa theo, Giác lấy làm lạ. Khi ra về, Lý
Giác làm thơ có ý khen Lê Hoàn như vua Tống, Lê Hoàn khen ý tốt, cho rất hậu, lại
sai người làm thơ tặng sứ giả.
Năm 990, nhà Tống sai người sang sách
phong, Lê Hoàn sai người đem thủy quân đi đón. Bây giờ sứ thần sang phong cũng
giản dị nên nhà vua coi thường, sự đón tiếp làm ra vẻ sơ sài, kiêu ngạo. Nơi sứ
quán, đồ cung tiếp không đầy đủ. Khi sứ sắp đến, Lê Hoàn mới làm gian nhà lợp
tranh đề chữ Mao kính dịch, nghĩa là trạm qua đường lợp cỏ tranh. Đến khi Lê
Hoàn ra đón ngoài thành thì quân dung lộng lẫy, cờ đàn bay khắp nơi. Vua cùng với
sứ giả giong cương ngựa cùng đi. Đến cửa điện Minh Đức, Lê Hoàn nhận tờ chế đặt
trên điện, không lạy, nói khéo rằng do đánh nhau với quân Man nên bị ngã ngựa,
đau chân. Hôm sau lại bày trò vui tiếp sứ giả, nhân đấy nói sứ giả: đường sá xa
xôi, núi sông hiểm trở, sau này nếu có thư tín gì về việc nước, thì nên giao
cho đầu biên giới, khỏi phiền sứ quân đến đây. Sứ thần về tâu lại, vua Tống
nghe theo.
Bài thơ Nam quốc sơn hà
Theo sách Lĩnh Nam chích quái:
Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua
Lê Đại Hành, Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân xâm lược nước
Nam. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành mộng thấy
hai anh thần nhân ở trên sông vái mà nói rằng họ là Trương Hống, Trương Hát xưa
theo Triệu Việt Vương; nay xin cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh. Vua Lê
Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn
đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như
Nguyệt mà lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, thần
nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau
chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị
thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn,
hai là Khước Mẫn Đại vương lập miếu thờ ở ngã ba sông Nguyệt.
PGS TS Trần Bá Chí cũng khẳng định:
Nam quốc sơn hà là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm Bắc
thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi
chống Nam Hán, mà là ở thời Vua Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã
vững vàng, an định.
Cái chết
Mùa xuân, ngày 8 tháng 3 âm lịch năm Ất
Tỵ (18 tháng 4 năm 1005), Lê Hoàn mất ở điện Trường Xuân, gọi là Đại Hành Hoàng
Đế, sau nhân đó dùng làm miếu hiệu mà không đổi, triều đình chôn ở sơn lăng
châu Trường Yên. Lê Long Việt, Đông Thành vương, Trung Quốc vương, Khai Minh
vương là những người con ông, tranh ngôi tám tháng khiến nước không có chủ.
Nhận định
Sử gia Lê Văn Hưu nhận định:
“Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ
như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh
dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được. Có người hỏi: Đại
Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan
giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng
Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy
tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý
Thái Tổ lo tính lâu dài hơn.”
— Đại Việt sử ký
Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định:
“Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt
giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ,
có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy. Song trong khi làm nhiếp chính mà tự
xưng là Phó Vương, dẫn đến việc bọn Điền, Bặc phải khởi binh, lên ngôi vua thì
phải nhờ bọn Cự Lạng đem binh đến uy hiếp, làm cung điện thì lấy vàng, bạc mà
trang sức. Phàm những việc như thế thì không bằng Lý Thái Tổ biết nghĩ xa hơn.
Văn Hưu nói lấy đức của nhà Lý mà soi đức của nhà Lê thì [đức của Lý] dày hơn,
há chẳng đúng sao!”
— Đại Việt Sử ký Toàn thư
Sử gia Ngô Thì Sĩ nhận định:
“Vua Đại Hành là người anh minh, quả quyết, nhiều mưu trí, dụng binh khéo
như thần, cho nên khu sách các anh hào, vang động cả quân Mán và người Tàu.
Nhưng vì tính nghiêm khắc, ưa nịnh hót, chỉ cốt làm cung điện cho lộng lẫy xa xỉ,
còn chỗ dinh thự và trại lính thì để chật hẹp quê kệch. Sứ thần Tống thấy thế
chê cười.”
— Việt sử tiêu án
Về vua Lê Đại Hành, sử nhà Tống dẫn lời
Tống Cảo, người đi sứ sang Đại Cồ Việt đã từng gặp Lê Hoàn mô tả ông là
"con người mắt lé" nhưng "hung hãn" và "có chí vác cả
núi ngăn cả bể".
Theo Phan Huy Chú nhận định trong Lịch triều hiến chương loại chí: Lê Đại
Hành là một vị vua mà "Sứ thần Trung
Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn
vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước,
chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển
lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng".
Theo Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung bàn rằng:
“Lê Đại Hành cầm quyền tướng quân mười đạo, giữ chức nhiếp chính, vua bé
nước nguy, nhân thời chịu mệnh, giết vua Chiêm Thành để rửa cái nhục sứ thần bị
bắt, phá quân Triệu Tống làm nhụt cái mưu tất thắng của chúng. Dùng bọn Hồng Hiến,
Cự Lạng, Từ Mục, Tử An để làm tả hữu. Cày ruộng tịch điền ở Long Đội, mời người
xử sĩ ở Tượng Sơn, kén dùng hiền tài, dựng mở trường học, có mưu lược to lớn của
bậc đế vương. Nhưng làm lắm việc thổ mộc, lấy vàng ngọc trang sức cung lầu, gây
nhiều việc can qua, coi nhân dân không khác cỏ rác, dẫu muốn không suy, có thể
được không?”
— Lê Tung
Lê Đại Hành tin dùng, lắng nghe sự cố
vấn của các thiền sư Phật giáo như Vạn Hạnh, Khuông Việt và Đỗ Pháp Thuận. Những
cao tăng này đã hỗ trợ tích cực cho ông trong các hoạt động chính trị, quân sự
và ngoại giao.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng:
"Vua trừ nội gian mà lấy được nước,
đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự. Tiếc rằng
không sớm chọn con nối, khiến cho con cái tranh nhau bên trong, dẫn đến mất
ngôi".
Theo sách An Nam chí lược, trước khi
sai quân đánh Đại Việt, vua Tống Thái Tông đã ra lời chiếu như sau: Thanh-giáo
và oai linh của nước nhà vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất Diên-Chỉ chưa sáp nhập
vào địa-đồ Trung-Quốc, chúng ở một phương, gần nơi Ngũ-Lĩnh. Từ cuối đời Đường
rối loạn, chia sẻ đất đai, rồi chúng làm ra một nước tiếm ngụy, ở xa thanh-giáo
thành ra phong-tục như đứa mù đứa điếc. Kịp khi Phiên-Ngung đã bình-định, mới
ban cho Chính-Sóc mà tuân hành, tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ
tu luyện binh lính, có ý quật cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế? Vậy
ta bất đắc dĩ phải trị tội gian ngụy để cứu dân, phải cử binh qua đánh để khai
hóa xứ mọi rợ; nay cho bọn Tôn-Toàn-Hưng xuất quân qua đánh.
Văn bản này đã xác nhận chính quyền
nhà Tống chưa thực sự sáp nhập Đại Việt vào lãnh thổ Trung Quốc và Đại Việt có
phong tục riêng biệt.
Về tên "Đại Hành"
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi vua
mới mất mà chưa được đặt thụy hiệu thì được gọi là Đại Hành Hoàng đế. Do vua nối
ngôi là Lê Ngọa Triều đã không đặt thụy hiệu nên "Đại Hành Hoàng đế"
đã trở thành thụy hiệu của Lê Hoàn.
Sử gia Lê Văn Hưu viết:
“Thiên tử và hoàng hậu khi mới băng hà, chưa táng vào sơn lăng, thì gọi
là Đại Hành Hoàng Đế, Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy
tôi bàn xem đức hạnh hay dở để đặt thụy là mỗ hoàng đế, mỗ hoàng hậu, không gọi
là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà truyền đến ngày
nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất tiếu, lại không có bề tôi Nho học để
giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế.”
Hiện nay nhiều ý kiến nghiêng về giải
thích "đại hành" là một chuyến đi lớn. Có sách khác lại giải thích
"đại hành" là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng một chữ 行, âm cổ đọc
như nhau).
Theo Tạ Chí Đại Trường trong sách Sơ thảo bài sử khác cho Việt Nam:
Các vua Ngô, Đinh chết đi chẳng có thụy hiệu, miếu hiệu gì cả, sử quan về
sau đành gọi là "chúa, vua đầu tiên" (Ngô Tiên Chủ, Tiên Hoàng Đế);
còn Lê Hoàn chết đi, xác để đó chờ con cái tranh giành nên tạm gọi là "ông
vua chưa chôn" (Đại Hành/Hạnh Hoàng Đế) rồi trở thành miếu hiệu vĩnh viễn
cho sử Việt.
Nghi vấn về quê hương
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Lê
Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (tức ngày 10 tháng 8 năm 941). Về quê
hương Lê Hoàn, vấn đề mà Ngô Thì Sĩ đặt ra từ thế kỷ XVIII, được thảo luận nhiều
lần dưới thời nhà Nguyễn, nhưng các nhà sử học vẫn chưa đưa ra được kết luận
nơi đâu trong ba nơi: Ninh Bình, Thanh Hóa hay Hà Nam là quê hương của ông. Năm
1981, tại hội thảo khoa học "Lê Hoàn và 1000 năm chiến thắng giặc Tống xâm
lược", nhiều vấn đề chung về thế kỷ X, về quê hương, thân thế, sự nghiệp của
ông bước đầu được giải quyết. Đến năm 2005, tại hội thảo "1000 năm Thăng
Long và sự nghiệp của Lê Hoàn", trải qua một chặng đường đổi mới của sử học,
nhiều vấn đề về quê hương của Lê Hoàn được đào sâu và nhìn nhận lại theo chiều
hướng thoáng rộng hơn. Tựu trung có các ý kiến sau:
Trường Châu (Ninh Bình)
Việt sử lược viết từ thời Trần ghi
là: "Đại Hành vương húy là Hoàn, họ Lê, người Trường Châu". Trường
Châu là vùng đất kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình. PGS TS Trần Bá Chí trước từng viết
rất công phu về quê hương, dòng dõi Lê Đại Hành cho rằng ông người Ái Châu
(Thanh Hóa), thì tại hội thảo 2005 cũng khẳng định rằng quê gốc ông là Trường
Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Các nhà nghiên cứu Mai Khánh (Bảo tàng Hà Nam) và TS Vũ
Văn Quân đồng ý rằng Lê Hoàn là người Trường Châu nhưng cho rằng Trường Châu
khi đó bao gồm cả Ninh Bình và Hà Nam. Thần tích một số đền thờ ở Hà Nam và
Ninh Bình cũng khẳng định Lê Hoàn quê gốc Ninh Bình. Cũng giống các vị vua khác
khi mất được hậu thế đưa về quê nhà, lăng mộ Lê Đại Hành đã được táng ở sơn
lăng Trường Yên.
Ái Châu
(Thanh Hóa)
Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lịch triều
hiến chương loại chí ghi: "Vua họ Lê, tên húy là Hoàn, người Ái
Châu".
Sách "Các triều đại Việt
Nam" còn cho rằng mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị Sen chứ không gọi là Đặng thị.
Sách An Nam chí lược của Lê Tắc thời
Trần, mục Lê nhị thế gia chép: "Lê Hoàn, người Ái Châu, có chí lược, được
lòng quân sĩ". Website chính thức của tỉnh Thanh Hóa cũng khẳng định Lê
Hoàn là người quê hương mình.
Đại Nam nhất thống chí chép: "Miếu
Lê Đại Hành Hoàng đế ở xã Trung Lập, huyện Thụy Nguyên, chỗ này là nền nhà cũ của
tiên tổ nhà vua". Mục tỉnh Hà Nội chép "mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu
xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm".
Sách Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô
Thì Sĩ chép: Vua Lê, tên Hoàn, người châu Ái, làm vua 24 năm, hưởng thọ 65 tuổi.
Bảo Thái (Hà Nam)
Đại Việt sử ký tiền biên ghi:
"Xét thấy Lê Đại Hành Hoàng đế người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ
không phải Ái Châu, sử cũ chép nhầm". Cuốn Việt Nam sử lược, Từ điển nhân
vật lịch sử Việt Nam, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều ghi: "Lê
Hoàn quê ở làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm". Nhà sử học Trần Quốc Vượng
cho rằng Lê Hoàn sinh ở Thanh Liêm, Hà Nam và theo ông, Thanh Hóa chỉ có thể là
quê ngoại hay quê cha nuôi Lê Hoàn. Lịch sử Hà Nam Ninh cũng đã nhận định:
"Lê Hoàn quê nội ở Thanh Liêm (Hà Nam), quê ngoại ở Kẻ Sập (Thanh Hóa).
Tuy sinh ở đất Ái Châu nhưng ông chỉ sống ở đấy hơn 10 năm, sau trở về Thanh
Liêm". Giáo sư Lê Văn Lan cũng cho rằng Lê Hoàn "là đứa trẻ mồ côi ở
làng Kẻ Sập - quê ngoại, chàng trai nghèo ở miền Bảo Thái quê nội". Ứng
Hòe Nguyễn Văn Tố, sau khi điểm lại một số nhận định của các cuốn sử cũ đã nêu
quan điểm: Thanh Liêm là nguyên quán của cha mẹ. Ái Châu là chỗ ở của cha nuôi,
mỗi quyển chép theo một nghĩa. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều
Nguyễn, phần ghi về lăng mộ ở huyện Thanh Liêm chép: "Mộ tổ Lê Đại Hành ở
bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm. Sử cũ cũng nhắc tới Trần Bình Trọng
quê ở xã Thanh Liêm là hậu duệ của Lê Hoàn. Vị danh tướng thời Trần này được
ban quốc tính vì có nhiều công trạng. Website chính thức của tỉnh Hà Nam cũng
khẳng định Lê Hoàn là người quê hương mình.
Ý kiến dung hòa
Thần tích Lê Hoàn tại lăng vua Lê,
làng Ứng Liêm (Hà Nam) giải thích có vẻ "hợp tình, hợp lý" tất cả những
vấn đề khúc mắc về quê quán, xuất thân của Lê Hoàn. Thần tích cho biết ông sinh
ra ở xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông nội là Lê Lộc và bà nội là Cao
Thị Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. Nhà nghèo nên đã về xã Ninh
Thái, Thanh Liêm, Hà Nam làm nghề chài lưới, đơm đó bắt cá. Ngày mùng 10 tháng
1 năm Nhâm Dần âm lịch (tức ngày 29 tháng 1 năm 942) sinh ra ông. Năm lên 7 tuổi,
ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải làm con nuôi quan án châu Ái (Thanh Hóa).
Tại Hội thảo Khoa học quốc gia
"Lê Hoàn - Quê hương và sự nghiệp" được tổ chức ngày 06/09/2016 tại
Hà Nam, phát biểu kết luận hội thảo, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê khẳng
định: Thông qua những tư liệu lịch sử, cơ sở khoa học có thể khẳng định Hà Nam
chính là quê gốc của Lê Hoàn.
Các nhà sử học cho rằng vấn đề quê
hương Lê Hoàn ở đâu không quan trọng bằng điều dễ nhận thấy là cả Ninh Bình,
Thanh Hóa và Hà Nam đều là những miền quê gắn bó mật thiết với cuộc đời và sự
nghiệp của vị vua này. Dựa trên các tư liệu chính sử và tư liệu lưu tại các địa
phương, đã minh chứng cụ thể về quê gốc, nơi sinh và dựng nghiệp của Lê Hoàn tại
các địa danh tại Bảo Thái (Hà Nam), Thọ Xuân (Thanh Hóa) và Trường Châu (Ninh
Bình).
Kết luận
Với vai trò là Chủ tọa Hội thảo
"Lê Hoàn - Quê hương và sự nghiệp" ngày 06/8/2016, Giáo sư, Nhà giáo
Nhân dân Phan Huy Lê - Nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã phát biểu
tổng kết: Sử sách chép Lê Hoàn người Trường Châu (Ninh Bình) hay Ái Châu (Thanh
Hóa) hay Bảo Thái (Hà Nam), mỗi ý kiến đều có những căn cứ nhất định, nhưng chỉ
qui về một địa phương là không rõ ràng và xác đáng.
Trường Châu (Ninh Bình) là nơi ông nội
của Lê Hoàn là Lê Lộc cùng vợ là Cao Thị Khương đã từng sinh sống và từ đó chuyển
đến Bảo Thái lập nghiệp. Không rõ quê gốc của Lê Lộc ở đâu, nhưng ông có sống ở
Trường Châu trong một thời gian trước khi tới Bảo Thái.
Bảo Thái (Hà Nam) là nơi định cư của
Lê Lộc, ông nội của Lê Hoàn. Tại đây Lê Lộc sinh ra Lê Hiền là cha của Lê Hoàn.
Bảo Thái là quê hương hai đời (không trọn vẹn) của Lê Hoàn, có thể coi là quê tổ
của Lê Hoàn. Đại Nam nhất thống chí cũng coi "mộ tổ của Lê Đại Hành" ở
Bảo Thái.
Ái Châu (Thanh Hóa) là nơi Lê Hoàn
sinh ra. Lê Hiền và vợ là Đặng Thị Khiết chuyển vào Trung Lập, huyện Thọ Xuân,
từ đây sinh ra Lê Hoàn, sau được viên Quan sát họ Lê nhận làm con nuôi. Đây là
nơi sinh của Lê Hoàn và quê hương của cha nuôi.
Đền thờ
Tính đến năm 2014, các nhà nghiên cứu
đã thống kê được hơn 51 nơi thờ Lê Đại Hành (trong đó có 19 nơi thờ riêng, 5
nơi phối thờ với bà Đô Hồ phu nhân; 5 nơi phối thờ với Thái hậu Dương Vân Nga
và 22 nơi thờ với các vị thần khác). Ninh Bình là tỉnh có nhiều di tích thờ Lê
Hoàn nhất với 15 nơi; tiếp theo là Thái Bình với 10 nơi; Hà Nội có 10 nơi, Nam
Định 4 nơi, Hà Nam 3 nơi; Hải Dương, Thanh Hóa 2 nơi, các tỉnh Hưng Yên, Hải
Phòng, Phú Thọ đã tìm thấy một nơi thờ.
Ninh Bình là vùng đất kinh đô của đất
nước dưới thời Lê Hoàn, các đền thờ thường tập trung nhiều ở khu di tích Cố đô
Hoa Lư như đền Vua Lê Đại Hành và đình Yên Thành ở Cố đô Hoa Lư, đình Trung Trữ
ở Ninh Giang (Hoa Lư), di tích chùa Đẩu Long, đền Đồng Bến (thành phố Ninh
Bình). Khu vực phía nam Ninh Bình là nơi vua đánh Tống và dẹp Chiêm đi qua nên
có rất nhiều nơi thờ như đền Thượng Ngọc Lâm ở xã Yên Lâm, đền Vua Lê ở xã Yên
Thắng, đình Từ Đường, đình Quảng Công ở xã Yên Thái (Yên Mô); các đền ở xã
Khánh Ninh và đền Nội thị Lân ở thị trấn Yên Ninh (Yên Khánh); đình làng Yên
Lâm ở xã Lai Thành và Miếu Dỹ Ninh xã Hồi Ninh (Kim Sơn);...
Thái Bình là nơi diễn ra một số trận
đánh của Lê Hoàn khi còn là tướng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, đặc biệt
là chiến trận với các sứ quân Phạm Bạch Hổ, Lã Đường ở Hưng Yên, đồng thời vùng
đất này cũng nằm trên đường hành quân từ kinh đô Hoa Lư ra các chiến trường Lục
Đầu Giang, Chi Lăng và Bạch Đằng. Điều này có thể giải thích cho việc nhân dân
quanh khu vực này thờ cúng Lê Hoàn, đặc biệt là vùng đất thuộc hai tổng Xích
Bích và Ỷ Đôn xưa. Các nơi thờ tiêu biểu như di tích đình và đền Vua Lê Đại
Hành ở các xã Chi Lăng, xã Đông Đô; xã Bắc Sơn, xã Tây Đô, xã Hòa Bình (huyện
Hưng Hà); xã Thái Thịnh (huyện Thái Thụy); xã Quỳnh Sơn, xã Quỳnh Giao, xã Quỳnh
Khê, xã Quỳnh Ngọc, xã Quỳnh Trang (huyện Quỳnh Phụ); xã Minh Tân (huyện Đông
Hưng);...
Các đền thờ ở khu vực Hà Nội thường ở
ven sông Nhuệ, trong đó Hà Đông 3 nơi, Thanh Trì 3 nơi (ở xã Tả Thanh Oai và Hữu
Hòa), Sơn Tây 2 nơi, Thường Tín 1 nơi (đình An Lãng - xã Văn Tự) và Ứng Hòa một
nơi (ở Đình Thanh Dương xã Đồng Tiến). Đình Trung Kính Hạ thuộc phường Yên Hòa,
quận Cầu Giấy cũng thờ Vua Lê Đại Hành.
Khu di tích đình, chùa, miếu của khu
Mộ Chu Hạ, phường Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ thờ Lê Đại Hành và 2 bà hoàng hậu.
Đây là nơi rất xa kinh đô Hoa Lư so với các di tích khác thờ Lê Hoàn.
Hà Nam có đền Lăng ở xã Liêm Cần quê
hương là nơi thờ Lê Hoàn. Ông cũng được thờ ở đình Cẩm Du, xã Thanh Lưu và đình
Ứng Liêm, xã Thanh Hà. Cả ba di tích đều thuộc huyện Thanh Liêm.
Thanh Hóa có đền thờ Lê Hoàn ở làng
Trung Lập, xã Xuân Lập, Thọ Xuân được cho là quê hương của người và đền Vua Lê
Đại Hành ở chân dãy núi Tam Điệp, thuộc xã Nga Giáp, Nga Sơn, thuộc khu vực cửa
biển Thần Phù xưa mà ở bên Ninh Bình cũng có nhiều đền thờ Lê Hoàn.
Các thần tích, thần sắc tại Hải
Dương, Hải Phòng - nơi diễn ra trận Bạch Đằng năm 981 cho thấy các tướng của
ông được thờ ở rất nhiều nơi và trong thần tích, thần sắc của họ có mô tả lại
những chiến công của Lê Hoàn tại khu vực này. Đền Vua Lê Đại Hành ở Hải Dương
được xây dựng tại xã An Lạc, huyện Chí Linh và đình Mạc Động xã Liên Mạc, Thanh
Hà cũng thờ Lê Hoàn. Tại thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) cũng có đền
riêng thờ Vua Lê Đại Hành. Đền được xây dựng ngay tại khu vực núi đá Tràng
Kênh, ngã ba sông Bạch Đằng, nơi diễn ra đại thắng mùa xuân 981.
Gia đình
Lê Đại Hành có 5 hoàng hậu gồm Đại Thắng
Minh Hoàng hậu, Phụng Càn Chí Lý Hoàng hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng hậu, Trịnh
Quắc Hoàng hậu và Phạm Hoàng hậu.
Sử cũng chép một người vợ khác của
ông, sinh cho ông ít nhất 2 người con, Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh. Sách Việt
sử lược chép là sơ hầu di nữ (初侯姨女), Đại Việt sử ký toàn thư chép là chi hậu diệu
nữ (祇候妙女). Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục Chính biên chép bà là
con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì. Về sau bà được con trai là
Long Đĩnh truy tôn hiệu Hưng Quốc Quảng Thánh Hoàng thái hậu.
Lê Đại Hành có 13 người con, 11 người con trai, 1 người con gái, 1 người
con nuôi. 11 người con trai và cả con trai nuôi đều được phong vương:
1.
Lê Long Thâu làm Kình Thiên đại vương
(phong năm 989), từng tham gia chiến tranh Việt - Tống 981, được Lê Đại Hành
phong làm Thái tử. Tuy nhiên, đến năm 1000 thì mất.
2.
Lê Long Tích làm Đông Thành vương
(phong năm 989), sau khi Lê Đại Hành mất, Lê Long Tích cùng các em tranh ngôi với
Lê Long Việt. Song thua chạy đến Thạch Hà thì bị dân ở đây giết chết.
3.
Lê Long Việt làm Nam Phong vương
(phong năm 989), sau là vua Lê Trung Tông. Sau 3 ngày ở ngôi vua thì bị Lê Long
Đĩnh ám hại năm 1005.
4.
Lê Long Đinh làm Ngự Man vương (phong
năm 991), đóng ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ).
5.
Lê Long Đĩnh làm Khai Minh vương
(phong năm 992), đóng ở Đằng Châu (nay thuộc Hưng Yên), sau là vua Đại Thắng
Minh Quang Hiếu Hoàng đế.
6.
Lê Long Cân làm Ngự Bắc vương (phong
năm 991), đóng ở Phù Lan, sau là Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Hưng. Hiện
nay thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
7.
Lê Long Tung làm Định Phiên vương
(phong năm 993), đóng ở Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang (Cổ Loa, Hà Nội).
8.
Lê Long Tương làm Phó vương (phong
năm 993), đóng ở Đỗ Động Giang (nay thuộc tây nam Hà Nội).
9.
Lê Long Kính làm Trung Quốc vương
(phong năm 993), đóng ở Càn Đà, Mạt Liên (nay thuộc Hải Dương), sau bị giết năm
1005.
10. Lê Long Mang làm Nam Quốc vương (phong năm 994), đóng ở Vũ Lung (nay thuộc
Thanh Hóa).
11. Lê Long Đề (Minh Đề) làm Hành Quân vương (phong năm 995), đóng ở Bắc Ngạn,
Cổ Lãm (nay thuộc Bắc Ninh).
12. Con nuôi Dương Hy Liễn làm Phù Đái vương (phong năm 995), đóng ở Phù Đái
(nay thuộc Hải Phòng).
13. Lê Thị Phất Ngân: Hoàng hậu của vua Lý Thái Tổ, mẹ của Lý Thái Tông, được
Lý Thái Tông phong là Linh Hiển Hoàng thái hậu.
Niên hiệu
Giữa năm 1005, Lê Đại Hành mất. Ông ở ngôi tất cả 26 năm, thọ 65 tuổi.
Trong 26 năm làm vua, ông đặt 3 niên hiệu:
·
Thiên Phúc (980 - 988)
·
Hưng Thống (989 - 993)
·
Ứng Thiên (994 - 1005)
Trong văn hóa đại chúng
Hình ảnh công cộng
Ngày nay các tên Lê Đại Hành hay Lê
Hoàn được đặt cho nhiều đường phố và trường học tại Việt Nam, đặc biệt, tên ông
cũng là của một phường cùng tên ở quận Hai Bà Trưng.
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia