STEPHEN HAWKING - TÁC GIẢ, NHÀ VẬT LÝ VĨ ĐẠI NGƯỜI ANH
"Tôi chỉ là một đứa trẻ không bao giờ lớn. Tôi không ngừng đặt những câu hỏi như “tại sao” và “như thế nào”. Đôi lúc, tôi tìm được câu trả lời” – Stephen Hawking (1942 - 2018)
TRỊNH CÔNG SƠN - NHẠC SĨ NỔI TIẾNG NHẤT CỦA TÂN NHẠC VIỆT NAM
"Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời." - Trịnh Công Sơn (1939 - 2001)
ALFRED NOBEL - NHÀ KHOA HỌC, TÁC GIẢ CỦA GIẢI THƯỞNG NOBEL
"Mọi người hãy dùng số tiền mà tôi để lại, hàng năm trao giải thưởng cho những người đã có cống hiến lớn lao trong các lĩnh vực vì lợi ích toàn nhân loại." - Alfred Nobel (1833 - 1896)
Alexandre Gustave Eiffel (15 tháng 12 năm 1832 – 27
tháng 12 năm 1923; Phát âm tiếng Pháp: [efɛl], tiếng Anh: /ˈaɪfəl/) là một kỹ sư kết cấu, nhà thầu và một nhà
chuyên môn về các kết cấu kim loại người Pháp. Ông nổi tiếng vì đã thiết kế
Tháp Eiffel, xây dựng năm 1887–1889 cho Triển lãm Thế giới năm 1889 tại Paris,
Pháp, và cốt cho Tượng thần Tự do, ở Cảng New York, Hoa Kỳ
Tuổi trẻ
Alexandre Gustave Eiffel sinh tại Dijon, Côte-d'Or, Pháp. Cái tên Gustave Eiffel được
cha ông lấy từ đầu thế kỷ 19 theo nơi sinh của ông tại vùng Eifel
Đức (ở Marmagen), bởi người Pháp không thể đánh vần được họ của ông,
Bönickhausen. Thời tuổi trẻ, hai luồng ảnh hưởng mạnh nhất tới Gustave Eiffel đều là
những nhà hoá học thành công, hai người chú Jean-Baptiste Mollerat và Michel
Perret. Cả hai đều bỏ rất nhiều thời gian chơi với Gustave Eiffel, nhồi nhét vào đầu
ông mọi thứ từ các kiến thức hoá học tới khai mỏ tới tôn giáo và triết học. Ở
trường học, Gustave Eiffel rất thông minh, nhưng không chăm chỉ lắm. Khi theo học trung
học tại Lycée Royal, Gustave Eiffelthấy chán ngán và cảm thấy rằng các buổi học là một
sự phí phạm thời gian. Mãi tới hai năm học cuối cùng Gustave Eiffelmới tìm được niềm cảm hứng của mình, không phải trong kỹ thuật, mà là trong lịch sử và văn học.
Các thói quen học tập của Gustave Eiffel dần cải thiện và ông tốt nghiệp với bằng cấp
cả về khoa học và nhân văn. Gustave Eiffel đăng ký theo học tại một trường cao đẳng ở SainteBarbeCollege tại Paris, để chuẩn bị cho các kỳ thi đầu vào khó
khăn tại École Polytechnique. École Polytechnique từng, và vẫn là, ngôi trường
nổi tiếng về kỹ thuật ở Pháp. Cuối cùng, Alexandre Gustave Eiffelkhông được nhận vào École
Polytechnique, nhưng thay vào đó ông theo học tại École Centrale des Arts et
Manufactures ở Paris
nơi ông học hoá học, nhận được bằng cấp tương đương Thạc sĩ Khoa học năm 1855.
École Centrale là một trường tư tự do hiện nổi tiếng là một trong các trường kỹ
thuật hàng đầu châu Âu. Công việc kinh doanh than của mẹ ông mang lại nguồn thu
nhập dư dật cho gia đình và tạo điều kiện cho Gustave có được nền giáo dục đại
học. Năm 1855 cũng là năm Paris
đứng ra tổ chức Hội chợ Thế giới đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp, người chú của Gustave Eiffel đề nghị ông làm việc tại một xưởng dấm ở Dijon, Pháp. Tuy nhiên, một cuộc tranh cãi
gia đình đã không chấp nhận cơ hội đó, và Gustave Eiffel nhanh chóng thành nhân viên
mới tại một công ty thiết kế cầu đường sắt.
Charles Nepveu trao cho Gustave Eiffel công việc đầu tiên với
tư cách một trong nhiều quản lý dự án của một cầu đường sắt nằm ở Bordeaux, Pháp. Trong quá
trình xây dựng, các kỹ sư lớn tuổi ở dự án dần thôi việc, và Gustave Eiffel cuối cùng
đảm nhiệm cả dự án. Neveu theo dõi công việc của Gustave Eiffel tại hiện trường và tiếp
tục đặt Gustave Eiffel vào các công việc khác liên quan tới quản lý dự án các cầu và
kết cấu đường sắt. Trong những dự án này, Gustave Eiffel được biết các kỹ sư khác thời
ấy, và ông được ghi nhớ với công việc của mình và được mời làm việc tại các dự
án khác. Nepveu có ảnh hưởng mạnh tới Gustave Eiffel giúp ông trở nên thành công hơn
với những dự án trong tương lai.
Sự nghiệp
Eiffel et Cie., công ty tư vấn và xây dựng của
Eiffel, với sự hỗ trợ của kỹ sư người Bỉ Téophile Seyrig, đã tham gia vào gói
thầu quốc tế xây dựng một cây cầu đường sắt dài 160m qua sông Douro, giữa
Oporto và Vila Nova de Gaia, Bồ Đào Nha. Đề xuất của ông giành chiến thắng bởi
nó đẹp, có cấu trúc trong sáng, giá thành thấp nhất, và nó tích hợp việc sử
dụng phương pháp các lực, khi ấy là một kỹ thuật mới trong thiết kế cấu trúc do
Maxwell phát triển năm 1864. Ponte Maria Pia là một vòng cung khớp đôi đỡ một
đường sắt đơn qua các cột tăng cường cho toàn bộ cây cầu. Việc xây dựng được
tiến hành nhanh chóng và cây cầu hoàn thành trong chưa tới hai năm (5 tháng 1
năm 1876 tới mùng 4 tháng 11 năm 1877). Nó được Vua D. Luís và Nữ hoàng D.
Maria Pia khai trương, và cây cầu được đặt theo tên nữ hoàng. Cây cầu được sử
dụng cho tới tận năm 1991 (114 năm), khi nó được thay thế bởi Cầu S. John, được
thiết kế bởi kỹ sư Edgar Cardoso. Eiffel đã xây dựng một số cầu đường sắt thép
đúc tại Massif Central, như các cầu cạn tại
Rouzat và Bouble. Chúng vẫn được dùng cho các chuyến tàu địa phương và được xây
dựng cuối những năm 1860.
Gustave Eiffel cũng thiết kế La Ruche tại Paris, Pháp. Cây cầu này,
giống như Tháp Eiffel, trở thành một địa điểm thắng cảnh của thành phố. Đây là
một kết cấu tròn ba tầng trông giống như một tổ ong lớn và được tạo ra như một
kết cấu tạm thời sử dụng như một nhà vòm rượu tại Đại Triển lãm năm 1900. La
Ruche trong tiếng Pháp có nghĩa "tổ ong". Ông cũng xây dựng cầu cạn
Garabit, một cầu đường sắt gần Ruynes en Margeride tại Cantal département. Ở
Châu Mỹ, Eiffel thiết kế ga đường sắt trung tâm tại Santiago de Chile (1897) và
Mona Island Light nằm gần Puerto Rico. Cây đèn
biển được xây dựng khoảng năm 1900 bởi Hoa Kỳ nước đã chiếm được hòn đảo sau
khi chấm dứt Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Nó ngừng hoạt động năm 1976.
Năm 1887, Gustave Eiffel tham gia vào nỗ lực của Pháp xây
dựng một Kênh Panama.
Công ty Kênh Panama Pháp, dưới sự lãnh đạo của Ferdinand de Lesseps, đã tìm
cách xây dựng một con kênh ngang mực nước biển, nhưng cuối cùng nhận ra rằng
điều này là không thể thực hiện. Một con kênh nâng, với các cống đã được lựa
chọn làm thiết kế mới, và Eiffel được giao việc thiết kế và xây dựng các cống.
Tuy nhiên, toàn bộ dự án kênh gặp vấn đề quản lý kém nghiêm trọng, và cuối cùng
sụp đổ với thiệt hại to lớn. Danh tiếng của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng nghiêm trọng
khi ông bị dính líu vào các scandal tài chính liên quan tới de Lesseps và các
doanh nghiệp hỗ trợ dự án. Chính Gustave Eiffel không liên quan tới các vấn đề tài
chính, và sau này phán quyết có tội với ông đã được đảo ngược. Tuy nhiên,
công việc của ông không bao giờ được thực hiện, bởi nỗ lực xây dựng kênh sau
này của người Mỹ sử dụng các thiết kế cống mới (xem Lịch sử Kênh Panama).
Sau khi nghỉ hưu ông nghiên cứu và phát triển những ý
tưởng mới thông qua việc sử dụng thực tế Tháp Eiffel. Tháp cho phép ông thực
hiện những tiến bộ trong khí động học, khí tượng học, và truyền phát radio. Ông
đã xây dựng một đường hầm gió tại đáy tháp để nghiên cứu khí động học, đặt các
thiết bị khí tượng ở nhiều vị trí trên tháp, và đề nghị quân đội lắp đặt thiết
bị radio trên đỉnh tháp. Trong những năm tiếp theo tháp tiếp tục được sử dụng
cho truyền phát radio và cuối cùng được dùng để phát sóng vô tuyến.
Gustave Eiffel mất này 27 tháng 12 năm 1923 trong ngôi nhà
của ông tại Rue Rabelais ở Paris, Pháp. Ông được chôn cất tại Cimetière de
Levallois-Perret.
Gustave Eiffel cũng đã từng tới nhiều nơi như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Philippines, vân vân, thiết kế các toà nhà và các cấu trúc
khác trong những chuyến thăm của mình. Ông trở nên rất nổi tiếng trên thế giới
về ngọn tháp chúng ta đều biết ngày nay với cái tên Tháp Eiffel (đã đề cập ở
trên).
Dấu ấn
Bức tranh năm 1886 của Edward Moran, The Statue of
Liberty Enlightening the World (Tượng Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới), thể
hiện lễ khai trương Tượng thần Tự do.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp đóng một vai trò quan
trọng trong cuộc đời của Gustave Eiffel. Mọi người đi vòng quanh thế giới, các
kỹ thuật và vật liệu mới xuất hiện, và các quốc gia tiến lên công nghiệp hoá.
Đa số các công việc của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng bởi một trong những điều kiện do
cuộc Cách mạng Công nghiệp tạo ra.
Điều kiện ảnh hưởng mạnh nhất tới công việc của Gustave Eiffel là giao thông. Mọi người trên khắp thế giới có nhu cầu đi lại an toàn
qua các con sông và cần tới những cây cầu. Việc xây dựng những cây cầu đó đã
khiến Eiffel có được danh tiếng là một kỹ sư, cho phép ông theo đuổi những dự
án lớn hơn và khó khăn hơn sau này. Những cây cầu ông thiết kế được xây dựng
trên khắp thế giới. Những cây cầu cho phép việc đi lại và thương mại diễn ra dễ
dàng và nhanh chóng hơn tại những địa điểm chúng được xây dựng. Nhiều cây cầu
của Eiffel không đòi hỏi phải có thợ tay nghề cao để lắp ráp, khiến chúng trở
thành một lựa chọn rất kinh tế.
Tháp Eiffel có một dấu ấn lớn tại Pháp. Tháp là điểm
nhấn của Triển lãm Thế giới (1889) và thu hút hàng triệu người tới Paris. Gần hai triệu
người tới thăm Tháp Eiffel chỉ riêng trong năm 1889. Tháp nhanh chóng trở thành
một điểm thu hút khách du lịch và mang lại những khoản tiền lớn cho nền kinh tế
Pháp. Ban đầu bị coi là một thứ gây chướng mắt (thực tế nó được thiết kế để có
thể được tháo dỡ dễ dàng sau cuộc Triển lãm), tháp nhanh chóng trở thành một
biểu tượng quốc gia của Pháp và mang lại cảm giác tự hào cho người dân sống tại
đó. Năm 1910 Gustave Eiffel đã có một kết luận phi thường trong xác định độ
kháng gió của một đĩa phẳng; Gustave đã dùng Tháp Eiffel làm nơi thí nghiệm.
Tượng thần Tự do là một món quà của Pháp cho Mỹ.
Thiết kế của Eiffel cho cấu trúc bên trong tượng cho phép nó có thể được thực
hiện trong thực tế. Tượng thể hiện tình hữu nghị và sự tôn trọng giữa Pháp và
Mỹ. Tượng thần Tự do nhanh chóng trở thành một biểu tượng quốc gia về tự do tại
Hoa Kỳ và cũng khiến những công dân nước này tự hào. Bức tượng trở thành một
điểm thu hút du khách nổi tiếng và khiến nhiều người tới New York, làm phát triển mạnh nền kinh tế.
Nhiều người Mỹ sống tại Pháp rất hài lòng về món quà dành cho nước mình và để
đáp lễ, đã chế tạo một bức tượng đồng tỷ lệ ¼ ở phía cuối dòng Île aux Cygnes,
1.4 km phía tây nam Tháp Eiffel.
Với tất cả những cơ hội do cuộc Cách mạng Công nghiệp
mang lại, nó cũng đưa tới nhiều thách thức. Bởi Eiffel có cơ hội làm việc tại
nhiều dự án ở những địa điểm khác nhau, các kỹ sư khác cũng có cơ hội tương tự.
Tính cạnh tranh cho các dự án rất cao và danh tiếng của kỹ sư đóng một vai trò
quan trọng trong việc thắng thầu dự án. Quả thực một thách thức khác trong sự
nghiệp của Eiffel là đưa ra các vật liệu xây dựng mới. Bởi các vật liệu xây
dựng mới chưa từng được chứng minh trong các dự án, các kỹ sư thường phải đối
mặt với nguy cơ khi sử dụng chúng. Nhiều cây cầu Eiffel đã xây dựng được làm
bằng thép là vật liệu mà ông đã giúp trở thành tiên phong. Với sự phát triển
của Thế gới Công nghiệp thời kỳ ấy. Một số phát triển của ông gồm: thiết kế một
hệ thống nén thuỷ lực cho phép các công nhân đặt móng cầu sâu hơn dưới nước,
tạo ra các dàn vì kèo và kết cấu khung khoẻ nhưng có trọng lượng nhẹ "kiểu
thanh dầm" có khả năng chống gió mạnh, sử dụng thép rèn cho xây dựng cầu
bởi độ dẻo của nó có thể chống lại gió mạnh, uốn cong các đầu cột để tạo ra các
đáy ổn định hơn, và phát triển "lao" là một cách dễ dàng hơn để di
chuyển các thành phần kết cấu tới vị trí. Sự khéo léo và tài năng nổi bật của Gustave Eiffel cho phép ông thiết kế và xây dựng một số cấu trúc nổi tiếng nhất thế giới.
Heinrich
Hermann Robert Koch (11 tháng 12 năm 1843 – 27 tháng 5 năm 1910) là một bác sĩ
và nhà sinh học người Đức. Ông nổi tiếng như một người đã tìm ra trực khuẩn bệnh
than (1877), trực khuẩn lao (1882) và vi khuẩn bệnh tả (1883) đồng thời là người
đã phát biểu nguyên tắc Koch. Ông đã được trao giải Nobel dành cho Sinh lý và Y
học cho các công trình về bệnh lao vào năm 1905. Ông cũng được coi là một trong
số những người đặt nền móng cho vi khuẩn học.
Tiểu sử
Robert
Koch sinh vào ngày 11 tháng 12 năm 1843 tại Clausthal, trên núi Upper Harz, Đức.
Là con trai của một người kĩ sư mỏ, ông làm bố mẹ phải kinh ngạc khi nói với họ
rằng ông đã tự học đọc bằng một tờ báo. Đó là dấu ấn đầu tiên về sự thông minh
và tính kiên trì về mặt phương pháp – những đức tính đã theo ông trong suốt cuộc
đời sau này. Ông học ở một trường cấp 3 địa phương (trường Gymnasium). Ở đó ông
đã thể hiện mối quan tâm tới sinh học, và cũng như bố, ham muốn mạnh mẽ đi du lịch
khám phá.
Năm
1862, Koch tới Đại học Göttingen để học y khoa. Tại đây, Koch bị ảnh hưởng bởi
tư tưởng của giáo sư môn giải phẫu học là Friedrich Gustav Jakob Henle về bệnh
truyền nhiễm là do những loài sinh vật sống kí sinh (luận điểm này đã được xuất
bản vào năm 1840). Sau khi lấy bằng bác sĩ vào năm 1866, Koch tới Berlin sáu
tháng để học hoá học dưới sự dẫn dắt của Virchow. Cùng năm, Koch cưới Emmy
Fraats. Bà đã sinh cho ông một người con gái duy nhất là Gertrud (sinh năm
1865), người mà sau này trở thành vợ của tiến sĩ E. Pfuhl. Năm 1867, ông bắt đầu
ổn định cuộc sống sau thời gian thực tập, đầu tiên ở Langenhagen và không lâu
sau đó, năm 1869, ở Rackwitz, tỉnh Posen. Ở đây ông đã vượt qua kì thi nhân
viên ngành y của tỉnh. Năm 1870, ông tham gia tình nguyện phục vụ trong cuộc
Chiến tranh Pháp – Phổ và từ năm 1872 tới 1880 là nhân viên ngành y của tỉnh Wollstein.
Cũng chính ở đây, ông đã thực hiện những nghiên cứu bước ngoặt, những nghiên cứu
đã đưa ông lên vị trí cao trong giới khoa học.
Bệnh
than vào thời đó đang xuất hiện trong các trang trại chăn nuôi ở tỉnh Wollstein
và Koch, mặc dù không có công cụ nghiên cứu khoa học nào và còn bị tách biệt với
thư viện và giới khoa học, đã lao vào nghiên cứu bệnh này bất chấp sức ép từ
công việc bận rộn của ông. Phòng thí nghiệm của ông là căn nhà 4 phòng và cũng
chính là nhà ông, còn dụng cụ nghiên cứu của ông, ngoài cái kính hiển vi vợ ông
tặng, đều do ông tự trang bị. Trước đó thì trực khuẩn than đã được tìm ra bởi
Pollender, Rayer và Davaine; và Koch đặt ra mục tiêu là chứng minh loài trực
khuẩn này chính là tác nhân gây bệnh than.
Ông
cấy vào chuột, bằng miếng gỗ tự chế, trực khuẩn than lấy từ lá lách của những động
vật trong nông trại đã bị chết bởi bệnh than, và thấy rằng những con chuột này
bị chết bởi trực khuẩn. Trong khi cùng lúc những con chuột được cấy bằng máu từ
lách của những con vật nuôi khoẻ mạnh thì không bị mắc bệnh than. Điều này củng
cố cho những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng bệnh này có thể lây qua đường
máu từ những con vật đã bị bệnh.
Nhưng
điều đó chưa thoả mãn Koch. Ông còn muốn biết những con trực khuẩn than chưa
bao giờ phát triển trong động vật thì có khả năng gây bệnh hay không. Để giả
quyết vấn đề này, ông đã triết xuất pure culture của trực khuẩn bằng cách nuôi
cấy chúng trong dịch lấy từ mắt bò. Bằng cách nghiên cứu, vẽ và chụp hình lại
những môi trường nuôi cấy này, Koch đã ghi lại sự nhân lên của trực khuẩn và nhận
thấy rằng điều kiện nuôi cấy không thích hợp với chúng, chúng đã tạo ra bào tử
(spore) bên trong chúng để chống lại điều kiện bất lợi đặc biệt là thiếu ôxy,
và khi điều kiện thuận lợi trở lại, bào tử có thể trở lại thành trực khuẩn.
Koch nuôi trực khuẩn qua vài thế hệ trong pure culture và chỉ ra rằng cả khi
chúng không hề lớn lên trong động vật thì chúng vẫn có khả năng gây bệnh than.
Kết
quả của công việc lao khổ này đã được Koch trình bày cho Ferdinand Cohn, giáo
sư thực vật học ở Đại học Breslau, người đã tổ chức một cuộc họp cùng với những
đồng nghiệp của mình cùng làm chứng cho sự trình bày của Koch trong số đó có
giáo sư Cohnheim, giáo sư về giải phẫu bệnh học. Cả Cohn và Cohnheim đều bị ấn
tượng bởi công trình của Koch và khi Cohn, vào năm 1876, xuất bản công trình của
Koch trong một tờ báo của ngành thực vật học mà ông làm biên tập viên thì Koch
đã lập tức trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục làm việc ở Wollstein 4
năm sau đó và trong thời gian đó đã tiến bộ hơn nhiều trong kĩ năng cố định,
nhuộm và chụp hình vi khuẩn đồng thời nghiên cứu thêm một số công trình quan trọng
nữa về bệnh gây ra bởi vi khuẩn trong các vết thương, và xuất bản công trình
vào năm 1878. Trong những công trình này ông đã nêu lên, cũng như những gì ông
đã làm với bệnh than, bản chất khoa học và thực nghiệm cho cách kiểm soát những
bệnh truyền nhiễm đó.
Tuy
nhiên Koch vẫn còn thiếu điều kiện cho công việc của ông và phải tới năm 1880,
khi ông được bổ nhiệm làm thành viên của Reichs-Gesundheitsamt (Cục Y tế Hoàng
gia) ở Berlin, thì ông mới được cung cấp đầu tiên là một phòng hẹp, thiếu thốn
nhưng sau đó là một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn, trong đó ông đã làm việc với
các phụ tá là Loeffler, Gaffky và những người khác. Ở đây, Koch tiếp tục hoàn
thiện phương pháp nghiên cứu vi khuẩn mà ông đã dùng ở Wollstein. Ông phát minh
ra phương pháp mới Reinkulturen – cấy pure culture của vi khuẩn vào môi trường
nuôi cấy rắn như khoai tây, hay thạch đựng trong một loại đĩa đặc biệt phát
minh bởi đồng nghiệp của ông là Julius Richard Petri, mà tới nay nó vẫn được sử
dụng phổ biến. Ông cũng phát minh ra một phương pháp nhuộm vi khuẩn mới làm
chúng dễ nhìn hơn và giúp xác minh chúng. Kết quả của những công trình này là sự
mở đầu cho phương pháp nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh trong đó vi khuẩn có thể dễ
dàng tách ra trong pure culture, không nằm trong cơ thể sinh vật và vì vậy
chúng có thể được xác định.
Koch
cũng đặt ra tiêu chuẩn, được biết đến như nguyên tắc Koch (Koch's postulate). Để
chấp nhận một vi khuẩn nào đó là nguyên nhân gây ra một bệnh nhất định hay
không thì tất cả tiêu chuẩn của "nguyên tắc Koch" cần được thoả mãn.
Hai
năm sau khi tới Berlin, Koch phát hiện ra trực khuẩn lao và phương pháp nuôi cấy
nó trên pure culture. Năm 1882, ông xuất bản công trình kinh điển của ông về trực
khuẩn. Ông vẫn tiếp tục bận rộn nghiên cứu cho tới khi ông được cử tới Ai Cập
vào năm 1883 với vai trò Chủ tịch Uỷ ban về bệnh tả của Đức, để điều tra về dịch
tả đang bùng phát ở đó. Ở đây ông đã phát hiện ra vi khuẩn vibrio là nguyên
nhân gây bệnh tả và mang được pure culture của vi khuẩn này về Đức. Ông cũng
nghiên cứu cả vi khuẩn tả ở Ấn Độ.
Trên
cơ sở những kiến thức của ông về đặc điểm sinh học và sự phân bố của vi khuẩn tả,
Koch đã hệ thống hoá nguyên tắc để kiểm soát dịch tả và điều đó đã được chấp
thuận bởi Quyền tối cao ở Dresden vào năm 1893 và nó đã trở thành nền móng cho
việc kiểm soát dịch tả ngày nay. Công trình của ông về bệnh tả đã được nhận giải
thưởng 100 ngàn mark Đức đồng thời cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc có kế
hoạch bảo vệ nguồn nước sinh hoạt.
Năm
1885, Koch được phong Giáo sư về vệ sinh học của Đại học Berlin và Giám đốc của
Viện vệ sinh mới được thành lập lúc đó tại trường này. Năm 1890 ông được phong
thượng tướng và người có đặc quyền (Freeman) của thành phố Berlin. Năm 1891 ông
trở thành Giáo sư Danh dự của khoa Y ở Berlin và Giám đốc Viện các bệnh truyền
nhiễm, nơi ông đã may mắn gặp được những đồng nghiệp như Ehrlich, von Behring
và Kitasato, cũng là những nhà phát minh nổi tiếng. Năm 1893, Koch cưới người vợ
thứ hai là Hedwig Freiberg.
Trong
thời gian này, Koch quay lại với những nghiên cứu về bệnh lao. Ông cố gắng hãm
lại quá trình phát triển bệnh bằng chất mà ông gọi là tuberculin, được làm từ
môi trường nuôi cấy trực khuẩn lao. Ông chuẩn bị các mẫu tuberculin, mới và cũ,
và sự thông báo về mẫu tuberculin cũ đã gây rất nhiều tranh cãi. Khả năng chữa
trị của chất này theo như những gì Koch tuyên bố là một sự thổi phồng, và bởi
vì hi vọng từ nó không được thoả mãn, dư luận quay ra chống lại nó và chống lại
Koch. Chất tuberculin mới được Koch công bố vào năm 1896 và khả năng chữa trị của
nó cũng làm thất vọng mọi người; nhưng nó đã dẫn tới sự phát hiện của một chất
có giá trị về mặt chẩn đoán.
Trong
khi công trình về tuberculin vẫn tiếp tục, đồng nghiệp của ông ở Viện về các bệnh
truyền nhiễm là von Behring, Ehrlich và Kitasato nghiên cứu và xuất bản công
trình mang tính bước ngoặt của họ về sự miễn dịch của bệnh bạch hầu.
Năm
1896, Koch tới Nam Phi để nghiên cứu nguyên nhân của bệnh dịch virut Rinde
(rinderpest) và mặc dù ông không tìm được nguyên nhân, ông cũng đã thành công
trong việc hạn chế sự bùng phát của bệnh dịch bằng cách tiêm cho những con gia
súc khoẻ mạnh mật lấy từ túi mật của những con đã bị bệnh. Rồi sau đó là các
nghiên cứu ở Ấn Độ và châu Phi về sốt rét, sốt rét tiểu đen (blackwater fever),
bệnh xura (surra) ở gia súc, ngựa và bệnh dịch hạch và xuất bản những quan sát
của ông về các bệnh này vào năm 1898. Không lâu sau khi quay lại Đức, ông lại
được cử tới Ý và vùng nhiệt đới nơi ông xác nhận công trình của Ronald Ross về
sốt rét và làm được một số công việc có ích trong nghiên cứu về nguyên nhân của
các dạng khác nhau của sốt rét và việc kiểm soát nó bằng thuốc kí ninh.
Trong
những năm cuối của cuộc đời, Koch đi tới kết luận là trực khuẩn gây bệnh lao ở
người và bò là khác nhau và tuyên bố của ông về điều này tại Hội nghị Y học quốc
tế về Lao ở Luân Đôn năm 1901 đã gây ra nhiều tranh cãi, nhưng bây giờ thì quan
điểm đấy của ông đã được công nhận là đúng. Công trình nghiên cứu của ông về bệnh
sốt Rickettsia đã dẫn đến ý tưởng mới, rằng căn bệnh này được truyền dễ dàng từ
người sang người hơn là từ nước uống, và vì thế dẫn đến phương pháp kiểm soát bệnh
mới.
Tháng
12 năm 1904, Koch được cử tới vùng Đông Phi của người Đức để nghiên cứu bệnh sốt
ở Bờ Biển Đông trên gia súc và ông đã tiến hành những quan sát quan trọng,
không chỉ với dịch bệnh này mà còn với những loài gây bệnh Babesia và
Trypanosome và bệnh xoắn khuẩn spirochaet có nguồn gốc lây truyền qua ve, bọ;
và tiếp tục công việc của ông trên những sinh vật này khi ông trở về nhà.
Koch
là người đã nhận rất nhiều giải thưởng và huân chương, học vị tiến sĩ danh dự của
Đại học Heidelberg và Bologna, công dân danh dự của thành phố Berlin, Wollstein
và quê hương ông Clausthal, thành viên danh dự của giới khoa học hàn lâm ở
Berlin, Viên, Posen, Perugia, Napoli và New York. Ông cũng được huân chương
danh dự Đức (German Order of the Crown), Bắc đẩu bội tinh của German Order of
the Red Eagle (lần đầu tiên giải thưởng cao quí này được trao cho một người
trong ngành Y) và huân chương của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Rất lâu sau khi ông mất,
ông còn được ghi công bằng tượng đài kỉ niệm và nhiều hình thức khác ở một số
nước.
Năm
1905, ông nhận được giải thưởng Nobel dành cho Sinh lý và Y học. Năm 1906, ông
quay lại Trung Phi để nghiên cứu về việc kiểm soát bệnh trùng mũi khoan
(trypanosomiasis), và ở đó ông đã báo cáo rằng atoxyl có tác dụng chống lại bệnh
này giống như thuốc kí ninh đối với sốt rét. Sau đó Koch tiếp tục công việc thực
nghiệm về vi khuẩn học và huyết thanh học.
Bác
sĩ Koch mất ngày 27 tháng 5 năm 1910 tại Baden-Baden.