Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN B. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN B. Hiển thị tất cả bài đăng
23 tháng 4, 2013
Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza (24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái. Tên họ của ông có nhiều dị bản: Despinoza, d'Espinoza, de Spinoza, Spinoza, v.v...
Spinoza được coi là một trong những nhà duy lý vĩ đại nhất của triết học thế kỷ 17và là một trong những nhà luân lý học có quan điểm dứt khoát (do cuốn Luân lý học- tác phẩm lớn được xuất bản sau khi ông qua đời). Các trước tác của ông, cũng như của các nhà duy lý khác, ông đã thể hiện khả năng và trình độ toán học cao. Spinoza sống bằng nghề mài kính, một ngành kỹ thuật đã được coi là rất lý thú vào thời đó - thời kỳ mà người ta đã thu được những phát kiến lớn từ kính viễn vọng. Phải một thời gian sau khi ông qua đời, sau khi cuốn Opera Posthuma của ông được xuất bản, hiệu ứng đầy đủ của các tác phẩm của ông mới được nhận ra. Ngày nay, ông được xem là người đã đặt nền móng cho thời kỳ Khai sáng của thế kỷ 18, và là người sáng lập của chủ nghĩa phê phán Kinh thánh hiện đại. Nhà triết học Gilles Deleuze của thế kỷ 20 gọi Spinoza là "Triết gia tuyệt đối, với cuốn Luân lý học của ông là cuốn sách lỗi lạc nhất về các khái niệm" (Deleuze, 1990).
Cuộc đời
Sau khi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha vào khoảng năm 1492, nhiều người Do Thái tìm cách tị nạn tại Bồ Đào Nha, nhưng tại đây, họ cũng phải lựa chọn giữa việc chấp nhận theo đạo Ki tô hay bị trục xuất tiếp. Spinoza sinh ra tại Amsterdam, Hà Lan. Cha mẹ ông, Miguel de Espinosa và Ana Débora, là người Do Thái Sephardic, thuộc cộng đồng những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái của thành phố. Ana Débora là vợ hai của Miguel, bà qua đời khi Spinoza mới 6 tuổi. Họ là những ngườiMarranos chạy trốn khỏi Bồ Đào Nha để tránh Tòa án Dị giáo Bồ Đào Nha và trở lại với Do Thái giáo. Một số người nói rằng thực ra gia đình Spinoza có tổ tiên ở Tây Ban Nha, những người khác lại cho rằng họ là những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái đã chuyển đến Tây Ban Nha rồi quay lại quê cũ Bồ Đào Nha vào năm 1492. Tại Bồ Đào Nha, họ bị buộc phải cải đạo sang Công giáo vào năm 1498. Miguel de Spinoza, cha của Spinoza ra đời sau cuộc cải đạo cưỡng ép này 1 thế kỷ, tại Vidigueira, một thành phố nhỏ của Bồ Đào Nha gần Beja ở Alentejo. Khi cha Spinoza còn nhỏ, ông nội Spinoza là Isaac de Spinoza đã đưa cả gia đình đến Nantes, Pháp. Năm 1615, họ lại bị trục xuất và chuyển đến Roterdam, nơi Isaac qua đời năm 1627. Cha Spinoza cùng gia đình chuyển đến Amsterdam, nơi họ lấy lại tín ngưỡng Do Thái giáo của mình (Manuel thậm chí còn đổi tên thành Abraão de Spinoza, tuy vẫn giữ tên buôn bán như cũ). Cha Spinoza là một thương gia nhập khẩu phát đạt. Baruch được nuôi dạy theo truyền thống Do Thái chính thống; tuy nhiên, bản tính tò mò và tư duy phê phán của ông đã nhanh chóng xung đột với cộng đồng Do Thái. Sau khi các cuộc chiến tranh với Anh và Pháp làm tiêu hao tài sản của gia đình và sau cái chết của cha, cuối cùng ông đã có thể hoàn thành trách nhiệm với công việc kinh doanh và nợ nần với người anh trai Gabriel, và dành toàn tâm toàn ý cho triết học và quang học.
Ban đầu, ông đã bị tẩy chay do các quan điểm thách thức luật lệ Do Thái, các quan điểm này phê phán mạnh mẽ Talmud và các kinh sách khác. Nói chung, Do Thái giáo khá là khoan dung trong việc chấp nhận các hình tượng không điển hình về Chúa trời; tuy nhiên, Spinoza tin rằng Chúa trời là Thiên nhiên/Vũ trụ, một tư tưởng khác xa với bất cứ hình dung truyền thống nào về Chúa trời. Vào mùa hè năm 1656, ông nhận được cherem của cộng đồng Do Thái, (tương tự như sự rút phép thông công), vì sự bội giáo trong cách ông nhận thức về Chúa trời. Các điều khoản của cherem này khá khắc nghiệt (xem [Kasher và Biderman]): nó không bao giờ được thu hồi. Sau khi bị rút phép thông công, ông lấy tên là Benedictus, phiên bản La Tinh của tên Baruch; cả hai đều mang nghĩa "được ban phúc". Ở quê hương Amsterdam, ông còn được biết với tên Bento de Spinoza, tên thân mật của ông.
Sau khi bị rút phép thông công, người ta kể rằng Spinoza đã sống và làm việc tại trường của Franciscus van den Enden, người đã dạy ông tiếng La tinh thời trẻ và có thể đã giới thiệu ông với triết học hiện đại, mặc dù Spinoza không lần nào nhắc đến Van den Enden trong sách và thư từ. Van den Enden là một người theo trường phái Descartes và vô thần, người bị chính quyền thành phố cấm công khai truyền bá các học thuyết của mình. Từ năm 1656, sau khi đã dành toàn tâm ý cho triết học, Spinoza mong muốn mãnh liệt thay đổi thế giới qua việc thiết lập một môn phái triết học bí mật. Do kiểm duyệt, điều này chỉ trở thành hiện thực sau khi ông qua đời, nhờ sự can thiệp của các bạn hữu của ông.
Trong thời kỳ này, Spinoza còn mở các mối quan hệ với một số người Collegiant, thành viên của một giáo phái phi giáo điều và tương giao giáo lý (interdenominational), với những xu hướng của chủ nghĩa duy lý và Arianism (quan điểm thần học của Arius về quan hệ giữa Chúa Cha và Jesus). Spinoza còn liên lạc với Peter Serrarius, một thương gia Kháng cách cấp tiến. Người ta tin rằng Serrarius đã có thời gian là người bảo trợ của Spinoza. Đến đầu thập niên 1660, Spinoza đã trở nên nổi tiếng, Gottfried Leibniz và Henry Oldenburg đã đến thăm ông. Ông còn giữ liên lạc với Oldenburg trong suốt phần đời còn lại. Tác phẩm đầu tiên của Spinoza được xuất bản là Tractatus de intellectus emendatione. Từ tháng 12 năm 1664 đến tháng 6 năm 1665, Spinoza trao đổi thư từ vớiBlyenbergh, một nhà thần học amateur theo chủ nghĩa Calvin, người đã chấn vấn Spinoza về định nghĩa của cái ác. Cuối năm 1665, ông thông báo với Oldenburg rằng ông đã bắt đầu viết một cuốn sách mới, cuốn Theologico-Political Treatise (Luận về thần học chính trị), xuất bản năm 1670. Đáng lưu ý rằng Leibniz đã bất đồng quan điểm sâu sắc với Spinoza trong cuốn Refutation of Spinoza (Phản bác Spinoza) của Leibniz.\
Khi phản ứng của công chúng đối với cuốn Theologico-Political Treatise (được xuất bản giấu tên) trở nên cực kỳ bất lợi cho nhánh của ông về thuyết Descartes, Spinoza buộc phải ngừng xuất bản các tác phẩm của mình. Với một cuộc sống thận trọng và sung túc, ông đeo một chiếc nhẫn ấn khắc chữ viết tắt tên mình, một bông hồng, và từ "caute" (tiếng La Tinh, nghĩa là "thận trọng"). Luân lý học và tất cả các tác phẩm khác, trừ Principles of Cartesian Philosophy (Các nguyên lý của triết học Descartes) và Theologico-Political Treatise, đều được xuất bản sau khi ông qua đời, trong cuốn Opera Postuma, được bạn bè ông bí mật biên tập để tránh bản thảo bị tịch thu và hủy.
Khoảng năm 1661, Spinoza chuyển từ Amsterdam đến Rijnsburg (gần Leiden), sau sống tại Voorburg, rồi The Hague. Ông có cuộc sống đầy đủ từ nghề mài kính. Nhiều người kể rằng ông chế tạo những chiếc kính lúp tuyệt hảo, một số nhà sử học viết ông là một nhà làm kính mắt. Ông còn được giúp đỡ bởi những khoản tiền nhỏ nhưng định kỳ từ những người bạn thân. Ông qua đời năm 1677, trong khi vẫn đang nghiên cứu một luận đề chính trị. Cái chết sớm của ông là do bệnh phổi, có thể là bệnh nhiễm bụi silic, hậu quả của việc thở bụi thủy tinh bay ra từ những chiếc thấu kính mà ông mài. Chỉ một năm trước đó, Spinoza đã gặp Leibniz tại The Hague để bàn luận về tác phẩm triết học quan trọng nhất của ông, Luân lý học, được hoàn thành năm 1676 (Lucas, 1960). Spinoza chưa bao giờ kết hôn và ông không có con.
Tổng quan về triết học Spinoza
Hệ thống triết học của Spinoza đã đưa trật tự và sự thống nhất vào truyền thống tư tưởng cấp tiến, đem lại vũ khí sắc bén cho việc chống lại "quyền lực được công nhận". Khi còn trẻ, đầu tiên ông đã theo học thuyết nhị nguyên của Descartes rằng tâm thức và thể xác là hai chất riêng biệt, nhưng về sau ông đã thay đổi quan điểm và khẳng định rằng chúng không tách biệt mà là một thực thể đơn nhất. Ông khẳng định rằng mọi thứ tồn tại trong Thiên nhiên/Vũ trụ đều là một Thực tại (chất), và chỉ có một tập luật quy định toàn bộ thực tại quanh ta mà ta là một phần của thực tại đó. Spinoza lý luận rằng Chúa trời và Thiên nhiên là hai cái tên của cùng một thực tại, đó là chất duy nhất - cái là cơ sở của vũ trụ, và là cái mà mọi "thực thể" kém hơn thực ra là các dạng thức (mode) và biến thể của nó; rằng việc mọi vật tồn tại và việc cái này là nguyên nhân gây ra cái khác đều là do Thiên nhiên quyết định; và rằng người ta chỉ hiểu được một phần của chuỗi nhân quả phức tạp. Ông còn cho rằng việc con người tự cho là mình có ý chí tự do là kết quả của nhận thức về lòng ham muốn trong khi không có khả năng hiểu được lý do tại sao họ lại muốn những gì mình muốn và hành động như những gì họ làm.
Spinoza khẳng định rằng "Deus sive Natura" ("Chúa trời hay Thiên nhiên") là một thực thể gồm vô hạn các thuộc tính, tư duy và phần mở rộng là hai thuộc tính trong đó. Từ đó, trong quan niệm của ông về bản chất của thực tại, hai thế giới vật chất và tinh thần có vẻ được xem là hai "thế giới con" tồn tại song song, không có phần chung nhau cũng như không giao nhau. Đây là một giải pháp phiếm tâm luận (panpsychist) quan trọng trong lịch sử để giải quyết vấn đề tâm-thân, giải pháp này được biết với tên thuyết nhất nguyên trung hòa (neutral monism). Các kết quả của hệ thống triết học Spinoza còn đem lại hình dung về một vị Chúa trời không cai trị vũ trụ bằng quyền năng, mà chính Chúa trời lại là một phần của hệ thống tất định mà mọi thứ trong thiên nhiên đều là một phần của hệ thống này. Do đó, Chúa trời là thế giới tự nhiên và không có tính cá nhân.
Spinoza đã là một người triệt để theo thuyết quyết định, ông cho rằng toàn bộ những gì xảy ra đều là qua hoạt động của tính cần thiết. Đối với ông, hành vi của con người là hoàn toàn được định trước, trong đó sự tự do là năng lực để biết rằng ta đã được định sẵn và để hiểu tại sao ta hành động như những gì ta làm. Do đó, tự do không phải khả năng từ chối những gì xảy đến với ta, mà là khả năng chấp nhận và hiểu biết đầy đủ về lý do tại sao mọi sự lại cần phải xảy ra như vậy. Bằng cách hình thành "đủ" ý niệm về hành động, cảm xúc hay tình cảm của mình, ta trở nên nguyên nhân "đầy đủ" của các kết quả của mình (nội tại hay ngoại vi), dẫn tới việc tăng tính chủ động (thay vì bị động). Điều đó có nghĩa là ta trở nên vừa tự do hơn vừa giống Chúa trời hơn, như tranh luận của Spinoza trong Scholium to Prop. 49, Phần II. Tuy nhiên, Spinoza còn khẳng định rằng mọi sự nhất thiết phải xảy ra như nó xảy ra. Do đó, không có ý chí tự do.
Triết học của Spinoza có nhiều điểm chung với chủ nghĩa khắc kỷ, ở chỗ cả hai trường phái triết học đều tìm cách thực hiện một vai trò chữa bệnh bằng cách hướng dẫn người ta cách đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, Spinoza có điểm khác biệt lớn đối với các triết gia khắc kỷ ở một khía cạnh quan trọng: ông phủ nhận hoàn toàn quan điểm rằng lý tính có thể chiến thắng cảm xúc. Ngược lại, ông khẳng định rằng một cảm xúc chỉ có thể bị thay thế hoặc làm mờ nhạt bởi một cảm xúc mạnh hơn. Đối với ông, điểm khác biệt cốt yếu là giữa các cảm xúc chủ động và bị động, cảm xúc chủ động là các cảm xúc được hiểu bằng lý tính, còn cảm xúc bị động thì không. Ông còn cho rằng tri thức về các nguyên nhân chân thực của cảm xúc bị động có thể biến nó thành một cảm xúc chủ động. Ở đây, ông đã thấy trước một trong các tư tưởng then chốt của phân tâm học Sigmund Freud.
Một số quan điểm triết học của Spinoza:
· Thế giới tự nhiên là vô hạn.
· Thiện và ác là các định nghĩa của Con người, không phải của thiên nhiên.
· Bất cứ điều gì mà con người và động vật làm đều là tuyệt vời và thần thánh.
· Mọi quyền lợi đều xuất phát từ Nhà nước.
Luân lý học
Phần mở đầu tác phẩm Luận về sự nâng cao hiểu biết (Tractatus de intellectus emendatione) đã gói trọn cốt lõi của luân lý học Spinoza, cái mà ông cho là cái thiện chân thực và cuối cùng. Spinoza có một lập trường của người theo chủ nghĩa tương đối, rằng không có gì mà tự nó là tốt hay xấu, ngoại trừ mức độ tốt xấu chủ quan mà từng cá nhân nhận thức về nó. Sự vật chỉ là thiện hay ác theo cách mà con người muốn áp dụng các khái niệm này cho vật chất. Thay vào đó, Spinoza tin vào vũ trụ tất định của ông mà "mọi vật trong thiên nhiên tiến triển do một sự cần thiết nhất định với một sự hoàn hảo tột bực." Do đó, trong thế giới của Spinoza, không có gì xảy ra một cách tình cờ, và lý tính không có tác dụng cho sự tình cờ. Trong vũ trụ, bất cứ điều gì xảy ra đều xuất phát từ bản chất của các đối tượng, hay bản chất của Chúa trời/Thiên nhiên. Do đó, theo Spinoza, sự hoàn hảo là rất lớn. Nếu hoàn cảnh được xem là bất hạnh thì đó chỉ là do nhận thức không đầy đủ của ta về thực tại. Tuy các phần tử của chuỗi nhân quả không vượt ra ngoài tầm hiểu biết của lý tính con người, nhưng khả năng nắm bắt cái toàn thể vô cùng phức tạp lại có hạn, do các hạn chế của khoa học trong việc xem xét toàn bộ chuỗi nhân quả bằng thực nghiệm. Spinoza còn khẳng định rằng, tuy là cơ sở của mọi ý nhiệm, nhưng nhận thức bằng giác quan chỉ dẫn tới sai lầm, vì chúng ta không biết được những nguyên nhân quyết định ước muốn và hành động của mình. Khái niệm "conatus" của ông - bản năng sinh tồn và phát triển của con người, và khẳng định rằng sức mạnh của đức hạnh/con người được định nghĩa bởi thành công của ta trong việc bảo tồn sự sống theo hướng dẫn của lý tính, đó chính là học thuyết luân lý học trung tâm của ông; đức hạnh cao nhất là tình yêu tri thức hay tri thức về Chúa trời/Thiên nhiên/Vũ trụ. Trong phần cuối của tác phẩm Luân lý học, mối quan tâm của ông đến ý nghĩa của "sự ban phúc chân chính" (true bless), cùng với cách tiếp cận và giải thích độc đáo của ông về việc phải tách các cảm xúc phải khỏi nguyên nhân ngoại vi như thế nào để làm chủ được chúng, là những đoạn rất đặc biệt, với nội dung tiên đoán các kỹ thuật tâm lý của thế kỷ 20. Khái niệm của ông về ba loại tri thức - quan điểm, lý tính, trực giác - và khẳng định rằng tri thức trực giác mang lại sự thỏa mãn cao nhất về tâm thức, dẫn đến đề xuất của ông rằng chúng ta càng ý thức được về bản thân và Thiên nhiên/Vũ trụ thì ta càng hoàn hảo và hạnh phúc sung sướng (trong thực tại), và rằng chỉ có tri thức trực giác là vĩnh cửu. Spinoza đã có đóng góp lớn lao cho hiểu biết về sự hoạt động của tâm thức, ngay cả trong thời kỳ của các phát triển triết học cấp tiến, các quan điểm của ông đã tạo nên một chiếc cầu nối giữa quá khứ thần bí của các tôn giáo và tâm lý học của thời hiện đại.
Tranh cãi về thuyết phiếm thần (Pantheismusstreit)
Năm 1785, Friedrich Heinrich Jacobi công bố một bài chỉ trích thuyết phiếm thần của Spinoza, sau khi Lessing được cho là đã thú nhận trên giường lâm chung rằng mình là người theo chủ nghĩa Spinoza, vào thời đó điều này tương đương với việc được gọi là người vô thần. Jacobi khẳng định rằng học thuyết của Spinoza là thuần túy duy vật chủ nghĩa, vì tất cả Thiên nhiên và Chúa trời đều được coi là chẳng là gì ngoài chất được mở rộng. Đối với Jacobi, điều này là kết quả của chủ nghĩa duy lý Khai sáng và nó sẽ đi đến kết cục là thuyết vô thần tuyệt đối. Moses Mendelssohn không đồng ý với Jacobi, ông cho rằng không có khác biệt thực sự nào giữathuyết hữu thần và thuyết phiếm thần. Thời đó, toàn bộ vấn đề đã trở thành một mối quan tâm chính về tôn giáo và tri thức đối với nền văn minh Châu Âu. Nhưng Immanuel Kant đã phủ nhận, khi ông cho rằng các cố gắng để nhận thức thực tại siêu nghiệm sẽ dẫn đến sự tự mâu thuẫn trong tư duy.
Sự hấp dẫn của triết học Spinoza đối với người châu Âu vào cuối thế kỷ 18 là ở chỗ: nó cung cấp một sự thay thế cho chủ nghĩa duy vật, thuyết vô thần, và thần thánh. Họ đặc biệt bị cuốn hút bởi ba trong số các tư tưởng của Spinoza:
· sự thống nhất của tất cả những gì tồn tại;
· tính quy tắc của tất cả những gì xảy ra; và
· định danh của tinh thần và thiên nhiên.
"Chúa trời hay Thiên nhiên" của Spinoza đã mang lại một vị Chúa trời tự nhiên, sống động, đối lập với Nguyên nhân Đầu tiên mang tính cơ học của Newton (Newtonian mechanical First Cause) hay cơ chế chết của cái "Máy Con người" ("Man Machine") của người Pháp.
Ảnh hưởng hiện đại
Châu Âu cuối thế kỷ 20 đã thể hiện một mối quan tâm lớn hơn về triết học Spinoza, thường từ một góc nhìn cánh tả hay Marxist. Các triết gia nổi bật như Gilles Deleuze, Antonio Negri, Étienne Balibar và triết gia người Brazile Marilena Chauí đã viết sách về Spinoza. Luận án tiến sĩ của Deleuze xuất bản năm 1968 gọi ông là "ông hoàng của các nhà triết học". (Deleuze, 1968). Các triết gia khác chịu ảnh hưởng lớn của Spinoza gồm có Constantin Brunner và John David Garcia. Stuart Hampshire viết một nghiên cứu lớn về Spinoza, tuy tác phẩm của H. H. Joachim cũng có giá trị ngang bằng. Không như các triết gia khác, Spinoza và các tác phẩm của ông đã đượcNietzsche đề cao.
Spinoza còn có ảnh hưởng vượt ra ngoài ranh giới của triết học. George Eliot, tiểu thuyết gia thế kỉ 19, đã dịch Luân lý học, bản dịch đầu tiên sang tiếng Anh được biết đến. W. Somerset Maugham, tiểu thuyết gia thế kỉ 20, đã bóng gió nhắc tới khái niệm trung tâm của Spinoza trong tựa đề tiểu thuyết của ông, Of Human Bondage (Về sự trói buộc con người). Albert Einstein gọi Spinoza là nhà triết học đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới quan của ông. Spinoza đã đặt Chúa trời (chất vô hạn) với Thiên nhiên, thống nhất với niềm tin của Einstein vào một vị thần phi cá thể. Năm 1929, Rabbi Herbert S. Goldstein đánh điện hỏi Eistein về chuyện ông có tin vào Chúa trời hay không. Einstein đã trả lời bằng bức điện có nội dung "Tôi tin vào vị Chúa trời của Spinoza, vị Chúa thể hiện mình trong sự hài hòa trật tự của những gì tồn tại, tôi không tin vào một vị Chúa quan tâm đến số phận và hành động của con người.". Thuyết phiếm thần của Spinoza còn ảnh hưởng lên lý thuyết môi trường. Arne Næss, người khai sinh phong trào sinh thái sâu (deep ecology), đã thừa nhận rằng Spinoza là một nguồn cảm hứng quan trọng. Xa hơn nữa, nhà văn người Argentina Jorge Luis Borges đã chịu ảnh hưởng lớn bởi thế giới quan của Spinoza. Trong nhiều bài thơ và truyện ngắn, ông liên tục nói bóng gió về tác phẩm của nhà triết học, không phải với vai trò một người ủng hộ các học thuyết của Spinoza, mà chỉ nhằm sử dụng các học thuyết này cho các mục đích mỹ học. Ông đã làm điều này nhiều lần với tất cả nhà triết học mà ông ngưỡng mộ.
Spinoza là một nhân vật lịch sử quan trọng tại Hà Lan, nơi chân dung của ông được vẽ trên tờ bạc 1000-guilder được dùng cho đến khi đồng euro được đưa vào sử dụng năm 2002. Giải thưởng khoa học cao quý nhất của Hà Lan có tên Spinozapremie (Giải thưởng Spinoza).
Các tác phẩm và nhân cách của Spinoza được nói đến trong cuốn sách của Matthew Stewart: The Courtier and the Heretic: Leibniz, Spinoza, and the Fate of God in the Modern World (Cận thần và kẻ dị giáo: Leibniz, Spinoza, và số phận của Chúa trời trong thế giới hiện đại) .
WILLIAM HENRY BILL GATES III - Doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch của tập đoàn Microsoft
William Henry "Bill" Gates III (sinh ngày 28 tháng 10, 1955) là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ mà ông cùng với Paul Allen đã sáng lập ra. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất trên thế giới và là người giàu nhất thế giới từ 1995 tới 2009, ngoại trừ năm 2008, khi ông chỉ xếp thứ ba. Trong sự nghiệp ở Microsoft, Gates làm CEO và kiến trúc sư trưởng định hướng cho sự phát triển của tập đoàn. Hiện tại, ông là cổ đông với tư cách cá nhân lớn nhất trong tập đoàn, nắm giữ trên 8 phần trăm cổ phiếu. Ông cũng là tác giả và đồng tác giả của một số cuốn sách.
Gates là một trong những doanh nhân nổi tiếng về cuộc cách mạng máy tính cá nhân. Mặc dù nhiều người ngưỡng mộ ông, nhiều đối thủ cạnh tranh đã chỉ trích những chiến thuật trong kinh doanh của ông, mà họ coi là cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền và công ty của ông đã phải chịu một số vụ kiện tụng. Trong giai đoạn gần cuối của sự nghiệp, Gates đã theo đuổi một số nỗ lực từ thiện, quyên góp và ủng hộ một số tiền lớn cho các tổ chức từ thiện và nghiên cứu khoa học thông qua Quỹ Bill & Melinda Gates, được thành lập năm 2000.
Gates đã thôi giữ chức giám đốc điều hành của Microsoft từ tháng 1 năm 2000 nhưng ông vẫn còn là chủ tịch và kiến trúc sư trưởng về phần mềm tại tập đoàn. Tháng 6 năm 2006, Gates thông báo ông sẽ chỉ giành một phần thời gian làm việc cho Microsoft và giành nhiều thời gian hơn cho Quỹ Bill & Melinda Gates. Bill dần dần chuyển vị trí kiến trúc sư trưởng sang cho Ray Ozzie, và vị trí giám đốc chiến lược và nghiên cứu sang cho Craig Mundie. Ngày làm việc toàn phần cuối cùng giành cho Microsoft của Gates là ngày 27 tháng 6 năm 2008. Ông vẫn còn giữ cương vị chủ tịch Microsoft nhưng không điều hành hoạt động tập đoàn.
Tiểu sử
Bill Gates sinh ra ở Seattle, Washington, bố là William H. Gates, Sr. và mẹ Mary Maxwell Gates, có nguồn gốc là những người Anh, Đức và Scotland-Ailen. Ông lớn lên trong gia đình khá giả; bố ông là một luật sư có tiếng, mẹ ông nằm trong ban giám đốc của công ty tài chính First Interstate BancSystem và United Way, và ông ngoại ông, J. W. Maxwell là chủ tịch của một ngân hàng liên bang. Gates có chị gái tên là Kristi (Kristianne), và một em gái tên là Libby. Ông là đời thứ tư trong gia tộc, nhưng người ta biết đến ông như là William Gates III hay "Trey" (ba) do bố ông đã bỏ hậu tố "III" trong tên gọi. Khi còn nhỏ, nghề nghiệp của bố mẹ Bill Gates đã làm cho ông có ước mơ trở thành luật sư. Khi Bill còn trẻ, gia đình ông thường tham dự vào một giáo đoàn của hội Tin lành.
Năm 13 tuổi, ông vào học trường Lakeside, một trường dự bị cho các học sinh giỏi. Khi ông học lớp tám, câu lạc bộ các bà mẹ (phụ huynh-Mothers Club) ở trường này đã dùng một khoản tiền nhờ việc bán các đồ dùng đã qua sử dụng để mua một máy đánh chữ cơ điện Model 33 ASR và một máy tính của hãng General Electric (GE) cho các học sinh của trường. Gates thấy thích thú khi lập trình trên máy tính của GE bằng ngôn ngữ BASIC, và ông đã không đăng ký vào các lớp học toán để theo đuổi sở thích của mình. Ông đã viết chương trình đầu tiên trên máy tính này đó là các thao tác của trò chơi tic-tac-toe cho phép người chơi thi đấu với máy tính. Chiếc máy đã thu hút Gates và tự đặt câu hỏi làm sao mà chiếc máy có thể luôn luôn thực thi các mã phần mềm một cách hoàn hảo như vậy. Khi ông nhớ lại thời điểm này, ông nói, "Chỉ cần một cái gì đó rõ ràng cho chiếc máy" ("There was just something neat about the machine"). Khi quỹ của hội phụ huynh đã hết, ông và các học sinh khác chuyển sang các hệ máy khác bao gồm máy tính mini PDP của hãng DEC. Hãng Computer Center Corporation (CCC) sáng chế ra PDP-10 đã cấm bốn học sinh trường Lakeside bao gồm Bill Gates, Paul Allen, Ric Weiland, và Kent Evans sử dụng hệ máy tính này trong mùa hè sau khi bốn người này đã khai thác các lỗi trong hệ điều hành để nhận được thêm thời gian sử dụng hệ máy tính này.
Khi hết hạn cấm, bốn học sinh đề nghị với công ty CCC là họ sẽ tìm các lỗi trong phần mềm của CCC và đổi lại họ được sử dụng các máy tính của công ty này. Thay vì sử dụng các hệ thống thông qua điện báo, Gates đã đến văn phòng CCC và nghiên cứu mã nguồn cho các chương trình khác nhau chạy trên hệ thống, bao gồm cả chương trình trong FORTRAN, LISP, và ngôn ngữ máy. Việc thỏa thuận với CCC bị kết thúc vào năm 1970, khi công ty này bị phá sản. Một năm sau, Information Sciences, Inc. đã thuê bốn học sinh trường Lakeside để viết một chương trình trả lương bằng ngôn ngữ COBOL, cho phép họ có thời gian sử dụng máy tính và bản quyền phần mềm của công ty. Sau khi những người quản lý ở trường biết được khả năng lập trình của ông, Bill đã được giao nhiệm vụ viết một chương trình lập thời khóa biểu cho các lớp học. Ông đã sửa các mã sao cho chương trình sắp xếp ông vào các lớp có nhiều nữ sinh nhất. Sau này ông nhận xét "thật khó có thể tách tôi ra khỏi máy tính mà rõ ràng tôi có thể chứng minh sự thành công từ nó" ("it was hard to tear myself away from a machine at which I could so unambiguously demonstrate success"). Lúc 17 tuổi, Gates lập kế hoạch kinh doanh với Allen đó là Traf-O-Data nhằm đếm lưu lượng giao thông dựa trên bộ xử lý Intel 8008.
Gates tốt nghiệp trường Lakeside vào năm 1973. Ông đạt được 1590 trên 1600 điểm ở kỳ thi SAT và đỗ vào trường Harvard College trong mùa thu năm 1973. Khi học ở Harvard, ông đã quen Steve Ballmer, người sau này kế vị chức CEO của Microsoft.
Trong năm học thứ hai, Gates nghĩ ra thuật toán trong vấn đề sắp xếp bánh kếp, bài toán được xếp vào một trong những vấn đề chưa giải được được nêu ra trong lớp toán tổ hợp của giáo sư Harry Lewis, một trong những người thầy của ông. Thuật toán của Gates đã giữ kỉ lục là thuật toán có thời gian giải nhanh nhất trên 30 năm; và thuật toán sau này chỉ nhanh hơn nó khoảng một phần trăm. Phương pháp của ông sau này được viết thành một bài báo chung với nhà khoa học máy tính ở Harvard là Christos Papadimitriou.
Gates không có kế hoạch học tập cụ thể ở Harvard và ông đã giành nhiều thời gian bên cạnh các máy tính ở trường. Ông vẫn liên lạc với Paul Allen, cùng tham gia vào Honeywell trong mùa hè năm 1974. Vào năm sau, chứng kiến sự ra đời của máy MITS Altair 8800 trên nền vi xử lý Intel 8080, lúc này Gates và Allen nhận ra đây là cơ hội cho họ sáng lập ra một công ty về phần mềm máy tính. Ông đã nói quyết định này với bố mẹ ông, họ đã ủng hộ ông sau khi thấy được ông sẽ cần bao nhiêu tiền để bắt đầu lập nghiệp với công ty.
Microsoft
BASIC
Sau khi đọc bài báo trên tạp chí Popular Electronics số tháng 1, 1975 về khả năng của máy Altair 8800, Gates đã liên lạc với công ty đã sáng chế ra chiếc mày này là Micro Instrumentation and Telemetry Systems (MITS), để công ty này có thể mời ông và những người khác làm việc với chiếc máy trên nền tảng trình thông dịch BASIC. Thực tế, Gates và Allen đã không được tiếp xúc với máy Altair và họ đã không viết mã chương trình cho nó; hai người chỉ muốn thử xem công ty MITS có muốn họ cộng tác hay không. Giám đốc MITS là Ed Roberts đồng ý cho họ sử dụng phiên bản demo, và chỉ trong vài tuần họ đã phát triển chương trình giả lập máy Altair chạy trên một máy tính mini, và sau đó là ngôn ngữ BASIC. Cuộc thử nghiệm chiếc máy đã diễn ra tại trụ sở của MITS ở Albuquerque đã thành công và kết quả là một bản thỏa thuận với MITS để công ty phân phối trình thông dịch dưới tên gọi Altair BASIC. Paul Allen được mời làm việc cho MITS, và Gates đã không có mặt ở trường Harvard để tới làm việc cùng Allen ở MITS tại Albuquerque vào tháng 11 năm 1975. Họ đặt tên cho sự hợp tác giữa hai người là "Micro-Soft" và trụ sở đầu tiên của công ty đặt ở Albuquerque. Cũng trong năm này, dấu gạch ngang đã được bỏ ra khỏi tên của công ty, và vào ngày 26 tháng 11 năm 1976, thương hiệu "Microsoft" đã được đăng ký tại Văn phòng bang New Mexico. Do đó mà Gates không thể hoàn thành khóa học tại Harvard được.
BASIC của Microsoft được phổ biến trong giới đam mê máy tính, nhưng Gates đã phát hiện ra rằng bản sao chép trước khi phần mềm được đưa ra thị trường đã bị rò rỉ ra cộng đồng và nhanh chóng nó được sao chép và phân tán. Tháng 2 năm 1976, Gates viết "Lá thư mở đến những người đam mê máy tính" trong chuyên san của MITS nói rằng MITS không thể tiếp tục sản xuất phần mềm, phân phối, và duy trì chất lượng cao của phần mềm mà không trả phí cho ông. Lá thư này không được nhiều người đam mê máy tính biết đến nhưng Gates vẫn khăng khăng tin rằng công ty phải trả khoản phí do ông đòi hỏi. Microsoft tách ra khỏi MITS vào cuối 1976, công ty tiếp tục phát triển các ngôn ngữ lập trình cho các hệ máy khác nhau. Ngày 1 tháng 1 năm 1979, công ty chuyển trụ sở từ Albuquerque đến Bellevue, Washington.
Những năm đầu của Microsoft, mọi nhân viên trong công ty cũng phải kiêm luôn hoạt động kinh doanh của nó. Gates giám sát khâu kinh doanh đến từng chi tiết, nhưng vẫn tiếp tục tham gia viết mã chương trình. Trong 5 năm đầu, cá nhân ông thường đánh giá từng dòng lệnh trong các phần mềm đóng gói của công ty, và thường viết lại từng phần của chúng cho đến khi ông thấy phù hợp.
Đối tác với IBM
Năm 1980, IBM thông qua Microsoft để viết trình thông dịch BASIC cho máy tính cá nhân sắp được tung ra của họ là máy IBM PC. Khi người đại diện của IBM đề cập đến họ cần một hệ điều hành trên các máy tính của họ, Gates đã giới thiệu họ với Digital Research(DRI), công ty viết hệ điều hành CP/M được sử dụng rộng rãi thời đó. Thỏa thuận giữa IBM với Digital Research đạt được kết quả không như mong đợi, và hai bên đã không đạt đến được thỏa thuận về đăng ký bản quyền. Đại diện của IBM là Jack Sams nhắc đến sự khó khăn trong vấn đề đăng ký trong cuộc gặp sau đó giữa ông và Bill Gates và nói với ông về đưa ra một hệ điều hành chấp nhận được. Vài tuần sau, Gates đề xuất sử dụng 86-DOS (QDOS), một hệ điều hành tương tự như CP/M do Tim Paterson của hãng Seattle Computer Products (SCP) viết cho các phần cứng có tính năng tương tự như PC. Microsoft đã thực hiện một thỏa thuận với SCP để trở thành đại lý cấp phép độc quyền, và sau đó là chủ sở hữu hoàn toàn đối với 86-DOS. Sau khi nâng cấp hệ điều hành cho phù hợp với PC, Microsoft chuyển giao nó cho IBM với tên gọi PC-DOS với phí một lần trao đổi là $50.000. Gates không đưa ra khả năng chuyển giao bản quyền của hệ điều hành, bởi vì ông tin rằng các nhà sản xuất phần cứng khác sẽ sản xuất PC dựa trên dòng máy của IBM. Và đúng là như vậy, nhờ thị phần lớn của MS-DOS làm cho Microsoft trở thành hãng phần mềm lớn trong công nghiệp phần mềm.
Gates giám sát quá trình tái cơ cấu Microsoft vào ngày 25 tháng 6 năm 1981, trong đó kết hợp lại công ty ở bang Washington và Gates trở thành Chủ tịch và Chủ tịch hội đồng quản trị của Microsoft.
Windows
Microsoft phát hành phiên bản bán lẻ đầu tiên của Microsoft Windows vào ngày 20 tháng 11 năm 1985, và trong tháng 8, công ty ký hợp đồng với IBM nhằm phát triển một hệ điều hành riêng biệt gọi là OS/2. Mặc dù hai công ty đã phát triển thành công phiên bản đầu tiên của hệ điều hành mới, nhưng sự gắn kết giữa những ý tưởng sáng tạo khác nhau đã dần làm suy yếu quan hệ đối tác. Gates phân phát một bản ghi nhớ nội bộ ngày 16 tháng 5 năm 1991 tuyên bố chấm dứt sự hợp tác trong OS/2 và Microsoft sẽ chuyển sang nỗ lực phát triển nhân hệ điều hành Windows NT.
Phong cách quản lý
Từ khi thành lập Microsoft năm 1975 cho đến 2006, Gates có trách nhiệm chính trong chiến lược sản phẩm của công ty. Ông đã tích cực mở rộng phạm vi sản phẩm của công ty, và ở bất cứ nơi nào Microsoft đạt được vị trí thống trị của nó thì ông mạnh mẽ bảo vệ vị thế này. Ông đạt được danh tiếng vượt xa so với những người khác; vào đầu năm 1981 một giám đốc điều hành công nghiệp phàn nàn trước công chúng rằng: "Gates có tính xấu là không chịu nghe và trả lời bằng điện thoại." Một vị giám đốc khác nhớ lại rằng sau khi chỉ cho Gates cách chơi một trò trơi điện tử và ông đã đánh bại anh ta với tỷ số 35 trên 37 ván, và khi hai người gặp lại nhau một tháng sau thì Gates "đã giành chiến thắng hoặc mê mẩn với trò chơi. Anh đã nghiên cứu trò này cho đến khi có thể giải được nó. Đây đúng là một đối thủ cạnh tranh."
Là giám đốc điều hành, Gates thường xuyên gặp gỡ với các nhà quản lý cấp cao và quản lý chương trình phần mềm của Microsoft. Những người tham dự các cuộc họp này mô tả ông luôn sẵn sàng tranh luận trực tiếp, hoặc trách móc các thành viên quản lý để mọi người nhận thấy được các lỗ hổng trong chiến lược kinh doanh của họ hoặc những rủi ro trong đề xuất khi tính đến lợi ích lâu dài của công ty.
Ông thường ngắt lời người thuyết trình với những câu phê phán như, "tại sao anh không từ bỏquyền chọn của mình và gia nhập Peace Corps?" Những người này sẽ phải bảo vệ đề xuất của mình trước những phản biện của ông cho đến khi người đó hoàn toàn thuyết phục được Gates hay không. Khi những người cấp dưới có vẻ chần chừ và muốn trì hoãn, ông thường nói một cách châm biếm rằng, "tôi sẽ làm việc đó vào cuối tuần.
Vai trò của Gates tại Microsoft trong phần lớn lịch sử của tập đoàn chủ yếu là người quản lý và điều hành. Tuy nhiên, ông cũng tham gia vào phát triển phần mềm trong những ngày đầu của công ty, đặc biệt về các sản phẩm ngôn ngữ lập trình. Ông không còn đảm nhiệm trưởng nhóm phát triển phần mềm kể từ sản phẩm TRS-80 Model 100 (1983), nhưng vẫn còn viết mã chương trình cho các sản phẩm của công ty cho đến 1989, Ngày 15 tháng 6, 2006, Gates tuyên bố ông rời vị trí quản lý thường nhật của tập đoàn trong hai năm tiếp theo để giành thêm thời gian cho công tác từ thiện. Ông quyết định chia trọng trách đảm nhiệm của mình, đề bạt Ray Ozzie là người quản lý hàng ngày và Craig Mundie giữ vai trò quản lý chiến lược sản phầm dài hạn.
Vụ kiện chống độc quyền
Nhiều quyết định của Bill Gates trong hoạt động kinh doanh của Microsoft đã dẫn đến vụ kiện chống độc quyền nhằm vào tập đoàn. Trong vụ kiện Hoa Kỳ chống lại Microsoft năm 1998, một số nhà báo đưa tin rằng trong lúc lấy lời khai, Gates trả lời nhiều câu hỏi một cách lảng tránh. Ông cãi với luật sư David Boies với nội dung tương đương một số từ như, "cạnh tranh", "quan tâm", và "chúng tôi".[48] Báo BusinessWeek đăng nội dung:
Ở những vòng lấy lời khai ban đầu, ông thường trả lời lúng túng và nói 'tôi không nhớ' rất nhiều lần khiến vị thẩm phán chủ tọa cũng phải cười. Tệ hơn nữa, nhiều lời phủ nhận và biện hộ không thể chối cãi của vị lãnh đạo công nghệ đã bị bên nguyên bác bỏ với những đoạn câu trong e-mail mà Gates đã gửi và nhận được.[49]
Gates sau đó nói rằng ông chỉ đơn giản chống lại những cố gắng của luật sư Boies nhằm hiểu sai những từ và hành động của ông. Nói về những cử chỉ trong lúc trả lời hỏi cung, ông kể, "Tôi có rào đón Boies không? ... Tôi đã nhận tội. Cho dùng hình phạt nên áp dụng vào tôi thì sự khiếm nhã của Boies phải được nhắc đến trước tiên” Mặc dù Gates phủ nhận, quan tòa đã phán quyết rằng Microsoft đã độc quyền và bán kèm đối với những sản phẩm của mình làm cản trở sự cạnh tranh trong thị trường, cả hai điều này đều vi phạm đạo luật chống độc quyền Sherman.
Xuất hiện trong quảng cáo
Bill Gates đã xuất hiện trong một số chương trình quảng bá cho Microsoft vào năm 2008. Phim quảng cáo thương mại đầu tiên, ông diễn cùng với Jerry Seinfeld, là một đoạn đối thoại ngắn dài 90 giữa một người lạ do Seinfeld thủ vai đi đến tiệm bán giầy giảm giá trong trung tâm mua sắm và gặp Gates đang mua giầy ở bên trong. Người bán hàng đang cố bán cho Bill Gates loại giầy quá cỡ. Khi Gates đang chọn mua, trên tay ông cầm một thẻ mua hàng giảm giá có ảnh hơi khác ảnh chụp của ông khi bị cảnh sát bắt tạm giữ vì Bill Gates đã vi phạm luật giao thông ở New Mexico năm 1977.[51]Khi hai khách hàng đi ra khỏi trung tâm, Seinfeld hỏi Gates có định hướng cho những nhà phát triển khác không, sau khi Bill trả lời là có thì ông ta hỏi tiếp là có phải họ đang làm cho máy tính trở lên dễ sử dụng hơn không, Gates tiếp tục trả lời là có. Một số người nói rằng đây là sự kính trọng dành cho chương trình hài kịch tình huống của Seinfeld về "không cái gì cả" (Seinfeld). Trong đoạn phim quảng cáo thứ hai, Gates và Seinfeld đến ở nhà của một gia đình trung lưu và cố gắng thích nghi với lối sống của họ.
Hậu Microsoft
Từ khi rời vị trí quản lý thường nhật tại Microsoft (ông vẫn là chủ tịch), Gates giành thời gian cho các hoạt động từ thiện, cùng các dự án khác như mua lại bản quyền ghi hình các bài giảng của Richard Feynman với nội dung Tính chất các định luật vật lý tại Đại học Cornell năm 1964 do hãng BBC ghi lại. Có thể xem miễn phí các video tại dự án Tuva của Microsoft.
Tháng 4 năm 2010, Gates được mời nói chuyện tại Học viện công nghệ Massachusetts với sinh viên về những vấn đề khó khăn mà thế giới trong tương lai phải đối mặt.
Cuộc sống cá nhân
Gates cưới Melinda French ngày 1 tháng 1 năm 1994. Họ có 3 con: con gái Jennifer Katharine (1996) và Phoebe Adele (2002) và một con trai Rory John (1999).
Gia đình họ sống trong khu biệt thự nhìn ra hồ Washington ở Medina, bang Washington. Theo thống kê công khai của quận King, cho đến 2006 giá trị của khu biệt thự vào khoảng 125 triệu $, và thuế bất động sản hàng năm là $991.000.
Khu bất động sản rộng 66.000 sq ft (6.100 m2) có một bể bơi dài 60 foot (18 m) trang bị hệ thống âm nhạc dưới nước, một phòng tập thể thao 2.500 sq ft (230 m2) và có một phòng ăn rộng 1.000 sq ft (93 m2).
Một trong những bộ sưu tập của Gates là bản thảo Codex Leicester, bao gồm những trang giấy viết tay của Leonardo da Vinci mà Gates đã mua trong cuộc đấu giá với số tiền 30,8 triệu $ năm 1994. Ông cũng là một người ham đọc sách, và trên trần của gian thư viện trong khu biệt thự có khắc một câu nói trong tiểu thuyết The Great Gatsby.[61] Ông cũng thích chơi bài bridge, tennis, và golf.
Gates được xếp vào danh sách tỷ phú Forbes 400 từ 1993 đến 2007 và là người giàu nhất thế giới theo danh sách tỷ phú của Forbestừ 1995 tới 2007 và 2009. Năm 1999, tài sản của ông vượt qua 101 tỷ $ trong một thời gian ngắn và các phương tiện truyền thông đã gọi Bill Gates "người giàu trăm tỷ đô". Mặc dù là người giàu có và thường xuyên phải di chuyển khắp nơi trên thế giới nhưng Gates vẫn đặt vé máy bay hạng phổ thông cho đến tận 1997 khi ông đặt mua một chiếc máy bay riêng. Từ 2000, giá trị cổ phần mà ông nắm giữ tại Microsoft bị tụt giảm do sự giảm giá cổ phiếu của Microsoft sau bong bóng Dot-com và do ông đã giành nhiều tỷ đô la cho quỹ từ thiện của mình. Trong một cuộc phỏng vấn tháng 5 năm 2006, Bill Gates đã nói rằng ông ước gì không trở thành người giàu nhất trên thế giới bởi vì ông không muốn quá nhiều sự chú ý mà danh hiệu này đem lại. Ông cũng đầu tư kinh doanh tại các công ty khác ngoài Microsoft, mà trong năm 2006 ông kiếm được số tiền 966.667$ với mức lương 616.667$ và khoản thưởng 350.000$ từ các công ty này. Ông thành lập hãng Corbis, một công ty ảnh kỹ thuật số vào năm 1989. Năm 2004 ông là giám đốc ban quản trị của Berkshire Hathaway, một tập đoàn đầu tư do người bạn lâu năm Warren Buffett thành lập. Tháng 3 năm 2010, Bill Gates được xếp hạng là người giàu thứ hai thế giới sau Carlos Slim.
Công tác từ thiện
Gates bắt đầu đánh giá cao sự mong đợi từ những người khác khi dư luận cho rằng ông có thể dùng tài sản của mình để làm từ thiện. Gates đã học cách làm của Andrew Carnegie vàJohn D. Rockefeller, và vào năm 1994 ông bán một số cổ phiếu của Microsoft nhằm tạo dựng Quỹ William H. Gates. Năm 2000, Gates và vợ đã sáp nhập ba quỹ của gia đình thành một là Quỹ Bill & Melinda Gates, quỹ từ thiện hoạt động công khai lớn nhất thế giới hiện nay. Cách hoạt động của quỹ cho phép các nhà hảo tâm biết được thông tin mà tiền họ quyên góp sẽ được sử dụng như thế nào, không giống như cách hoạt động của những tổ chức từ thiện lớn khác như Wellcome Trust. Sự hào phóng và đóng góp lớn củaDavid Rockefeller cho công việc từ thiện được coi là nhân tố chính tác động đến ông. Gates cùng cha mình đã gặp Rockefeller vài lần, và họ thực hiện công tác từ thiện theo những mục tiêu giống với mục tiêu hoạt động của quỹ từ thiện nhà Rockefeller, như những vấn đề toàn cầu bị chính phủ các nước và các tổ chức bỏ qua hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Cho đến 2007, Bill và Melinda Gates là quỹ từ thiện lớn thứ hai ở Hoa Kỳ, với ngân sách tới 28 tỷ $. Họ có kế hoạch dành tới 95% tài sản cho từ thiện.
Quỹ đầu tư vào các công ty có mục đích làm giảm tỷ lệ đói nghèo ở các nước kém phát triển, vào các công ty sản xuất gây ô nhiễm nặng, công ty dược mà nhiều loại thuốc không được bán ở các nước đang phát triển. Mục tiêu của Quỹ là thúc đẩy những ý tưởng sáng tạo, phát triển các công nghệ năng lượng sạch, nâng cao khả năng chăm sóc sức khỏe của xã hội cũng như đầu tư vào giáo dục.
Melinda Gates cho rằng nhiều người nên học lòng từ thiện của gia đình Salwen. Gia đình này đã bán nhà của họ và dành một nửa số tiền thu được cho quyên góp từ thiện, như được miêu tả trong The Power of Half. Gates và vợ đã mời Joan Salwen đến Seattle để kể về những hoạt động mà gia đình họ đã làm. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2010, Gates, Warren Buffett, và Mark Zuckerberg đã ký vào bản ghi nhớ "Cam kết cho đi của Gates-Buffet", mà họ hứa sẽ giành ít nhất một nửa tài sản làm từ thiện trong tương lai.
Công nhận
Năm 1987, Gates lần đầu tiên trở thành tỷ phú khi có tên trong danh sách Những người giàu nhất Forbes 400 xuất bản ở Hoa Kỳ, chỉ một ngày trước lần sinh nhật thứ 32 của ông. Là một tỷ phú tự thân lập nghiệp trẻ nhất thế giới với tài sản khi đó là 1,25 tỷ $, tăng hơn 900 triệu $ so với tài sản ông có ở năm trước.
Tạp chí Time nêu tên Gates là một trong những người ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20, cũng như một trong 100 người ảnh hưởng nhất trong các năm 2004, 2005, và 2006. Time cũng vinh danh đồng thời Gates, Melinda và trưởng nhóm ban nhạc U2 Bono là Nhân vật của năm 2005 cho những nỗ lực mang tính nhân văn của họ. Năm 2006, ông đứng thứ 8 trong danh sách "Anh hùng của thời đại". Năm 1999 báo The Sunday Times nêu tên ông trong "Danh sách những người quyền lực nhất", và Tạp chí Giám đốc điều hành công nhận ông là CEO của năm 1994. Ông xếp thứ nhất trong "Top 50 Nhân vật Công nghệ" của Time năm 1998, xếp thứ hai trong "Danh sách 100 người nổi tiếng" của tờ Upside năm 1999 và là một trong "Top 100 người ảnh hưởng trong truyền thông" của The Guardian năm 2001.
Năm 1994, ông được vinh danh là Hội viên xuất sắc thứ 20 của Hiệp hội Máy tính Anh quốc. Bill Gates đã nhận nhiều bằng tiến sỹ danh dự từ Đại học kinh doanh Nyenrode, Breukelen, Hà Lan năm 2000; Viện công nghệ hoàng gia, Stockholm, Thụy Điển năm 2002; Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản năm 2005; Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, Trung Quốc năm 2007; Đại học Harvard năm 2007; Viện Karolinska, Stockholm, năm 2008, và Đại học Cambridge năm 2009. Ông cũng là thành viên danh dự của Đại học Bắc Kinh năm 2007. Gates cũng là Hiệp sĩ danh dự của Đế chế Anh (KBE) do Nữ hoàng Elizabeth II trao năm 2005, và các nhà côn trùng học đặt tên Bill Gates cho một côn trùng họ Ruồi giả ong là Eristalis gatesi.
Tháng 11 năm 2006, ông và vợ nhận Tước hiệu Đại bàng Aztec cho hoạt động từ thiện của họ trên thế giới trong các lĩnh vực sức khỏe và giáo dục, đặc biệt ở Mexico với chương trình "Un país de lectores". Tháng 10 năm 2009, Gates nhận Giải thưởng Bower 2010 trong lĩnh vực Người lãnh đạo kinh doanh của Viện Franklin vì những thành tựu trong kinh doanh và công tác từ thiện. Năm 2010 ông nhận Giải bạc Buffalo của Hội Nam Hướng đạo Mỹ, giải thưởng cao nhất giành cho người lớn vì những hoạt động giành cho tuổi trẻ.
Năm 2011, Bill Gates là một trong năm người quyền lực nhất trên thế giới theo tạp chí Forbes.
Đầu tư
Cascade Investments LLC, công ty bất động sản và đầu tư tư nhân ở Hoa Kỳ, do Bill Gates quản lý, có trụ sở Kirkland, Washington.
bgC3, một công ty nghiên cứu các công nghệ mới do Bill Gates sáng lập.
Corbis, công ty dịch vụ ảnh bản quyền kĩ thuật số.
TerraPower, công ty thiết kế lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới.
Sách và phim
Cho tới nay, Bill Gates đã viết hai cuốn sách. Con đường phía trước, viết cùng giám đốc điều hành Nathan Myhrvold và nhà báo Peter Rinearson, xuất bản tháng 11 năm 1995, cuốn sách tổng kết vai trò và ý nghĩa của cuộc cách mạng máy tính cá nhân và miêu tả tương lai sẽ thay đổi như thế nào khi có một mạng lưới truyền thông tin tốc độ siêu cao. Kinh doanh @ tốc độ của Tư duy xuất bản năm 1999, thảo luận về kinh doanh và công nghệ được kết hợp với nhau như thế nào, và tác giả chỉ ra mạng lưới thông tin và cơ sở hạ tầng kĩ thuật số sẽ là một yếu tố cạnh tranh trong thời đại số.
Gates đã xuất hiện nhiều trong phim tài liệu như phim Waiting for "Superman" năm 2010, và loạt phim tài liệu của BBC The Virtual Revolution.
Bill Gates là nhân vật chính trong phim Pirates of Silicon Valley năm 1999, bộ phim kể về lịch sử hình thành và quá trình phát triển củaApple và Microsoft từ đầu thập niên 1970 tới 1997. Diễn viên Anthony Michael Hall thủ vai ông.
ĐỌC NHIỀU
-
Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” ĐĂNG TẠI: NGƯỜI TA LÀ HOA CỦA ĐẤT | Tags: HFS , Lê Quý Anh , NSUT Văn Lượng , tiến sĩ kiê...
-
Thầy Hà Trung Thành đã từng là Hiệu trưởng Hiệu trưởng trường Huấn luyện Cán bộ Thiếu niên Tiền phong TP. Hồ Chí Minh, Hiệu trưởng trư...
-
Võ Quốc Thắng sinh ra và lớn lên tại Long An. Vào năm 1963, khi chiến tranh diễn ra ác liệt tại quê nhà, ba Thắng, cụ Võ Thành Lân đã cù...
-
Nguyễn Duy Cương là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Khai phá khả năng tiềm ẩn con người. Ông đã và ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Sir John Tenniel - Danh hoạ nổi tiếng người Anh cách đây 2 thế kỷ Sir John Tenniel (28/2/1820 – 25/2/1914) là một họa sĩ biếm họa ngườ...
-
Chúng ta thường nghe nói rất nhiều về doanh nhân nổi tiếng, trước khi quản lý một doanh nghiệp trị giá hàng triệu đô, họ đã khởi nghiệp...
-
TRẦN THÁNH TÔNG – VUA VIỆT NAM – HOÀNG ĐẾ ĐẠI VIỆT Trần Thánh Tông – Thông tin chung: Trị vì: 30 tháng 3 năm 1258 – 8 tháng 11 n...
-
James Gosling (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1955 gần Calgary, Alberta, Canada) là một nhà phát triển phần mềm nổi tiếng. Nghề ...
DANH MỤC
- ANH HÙNG
- BÁC SĨ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH TRỊ
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CÔNG CHÚA
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄN GIẢ
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SƯ
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH TẾ
- MỤC SƯ
- NGƯỜI DO THÁI
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VẬT LÝ
- NHẠC SĨ
- NHÂN KHẨU HỌC
- ÔNG CHỦ
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- TÁC GIẢ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TRIẾT GIA
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VOLTAIRE
- Vua
BÀI VIẾT
-
►
2013
(49)
- ► tháng mười hai (2)
- ► tháng mười một (1)
- ► tháng mười (1)
-
►
2011
(10)
- ► tháng mười hai (6)
- ► tháng mười (1)
- ► tháng chín (2)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia