Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN S. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN S. Hiển thị tất cả bài đăng
29 tháng 4 2013
George Bernard Shaw (26 tháng 7 năm 1856 – 2 tháng 11 năm 1950) là nhà soạn kịch người Anh gốc Ireland đoạt giải Nobel Văn học năm 1925.
Tiểu sử
George Bernard Shaw sinh ở Dublin, là con thứ ba của George Carr Shaw (1814 – 1885) và Lucinda Elizabeth Shaw (1830 – 1913). Cha trước làm công chức sau chuyển sang buôn ngũ cốc bị thua lỗ trở thành người nghiện rượu, mẹ là ca sĩ chuyên nghiệp, chị gái của Lucinda Frances (1853 – 1920)– cũng là một nữ ca sĩ opera nổi tiếng. Lúc nhỏ Shaw học kém nhưng lại có khiếu về âm nhạc, sớm hiểu và yêu thích tác phẩm của các nhạc sĩ danh tiếng, học thêm về hội họa ở Dublin. Lúc 15 tuổi ông làm nhân viên tập sự, thủ quỹ cho một hãng bất động sản. Năm 1876, ông theo mẹ và hai chị đến London sinh sống, viết các bài phê bình âm nhạc cho các báo để kiếm tiền, tự học, quan tâm và tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Năm 1884 ông tham gia thành lập Hội Fabian (Fabian Society) - tổ chức của các trí thức Anh chủ trương quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường hòa bình.
Thời kì 1879-1883, Shaw viết tiểu thuyết đầu tay Immaturity (Non nớt) và 5 tác phẩm khác nhưng chưa được in; cuốn An Unsocial Socialist (Một người xã hội chủ nghĩa phi xã hội, 1884) là tiểu thuyết đầu tiên được in năm 1887.
Shaw được coi là cha đẻ của "kịch ý niệm", ông bắt đầu sáng tác kịch từ năm 1885, nhưng bắt đầu nổi tiếng với vở Widowers' Houses (Những ngôi nhà của những người góa vợ, 1892). Đến năm 1903, kịch của ông chiếm lĩnh sân khấu Mỹ, Đức; năm 1904 chiếm lĩnh sân khấu trong nước. Ông càng nổi tiếng thêm khi vua Anh đến dự buổi biểu diễn vở John Bull's Other Island (Hòn đảo khác của John Bull, 1904), sau đó kịch của ông lan tràn sang các nước châu Âu. Shaw được coi là nhà soạn kịch xuất sắc nhất nước Anh, ông muốn dùng nghệ thuật để thức tỉnh con người trước yêu cầu phải thay đổi trật tự tư sản với tất cả các thể chế và tập tục của nó. Ông nhấn mạnh đến chức năng giáo dục của sân khấu, nhưng xem chức năng giáo dục không phải là sự áp đặt từ phía nhà viết kịch mà là khơi dậy nhu cầu thẩm mĩ của chính khán giả. Những vấn đề gay gắt của xã hội đương thời như thế lực khuynh đảo của đồng tiền, các kiểu bóc lột, tình trạng nghèo khổ của người dân kéo theo các tệ nạn xã hội được phản ánh rõ nét trong kịch của Shaw. Phong cách kịch của Shaw thiên về trào lộng, châm biếm, tìm đường đến chân lí thông qua những nghịch lí.
Ông đi du lịch nhiều nơi ở các nước châu Âu, châu Phi, Liên Xô... Trong 2 năm 1932-1933 ông đi vòng quanh thế giới, thăm châu Mỹ và Nhật Bản.
Năm 1923, vở Saint Joan (Nữ thánh Joan) ra đời và được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Shaw, hai năm sau ông được nhận giải Nobel. Shaw dùng tiền thưởng của giải thành lập Quỹ Văn học dành cho các tác giả viết kịch. Ông mất năm 1950 tại nhà riêng ở Hertfrordshire, Anh.
Tác phẩm
· Immaturity (Non nớt, 1879), tiểu thuyết
· The Irrational Knot (Cuộc hôn nhân không hợp lí, 1880), tiểu thuyết
· Love Among the Artists (Tình nghệ sĩ, 1881), tiểu thuyết
· Cashel Byron's Profession (Nghề của Cashel Byron, 1882), tiểu thuyết
· An Unsocial Socialist (Một người xã hội chủ nghĩa phi xã hội, 1884), tiểu thuyết
· The Man of Destiny (Con người của số phận, 1885), kịch
· You Never Can Tell (Bạn chẳng bao giờ nói được, 1886), kịch
· The quintessense of Ibsenism (Tinh túy của chủ nghĩa Ibsen, 1891), khảo cứu
· Widowers' Houses (Những ngôi nhà của những người góa vợ, 1892), kịch
· The Philanderer (Anh chàng hào hoa, 1893), kịch
· Arms and the Man (Vũ khí và con người, 1894), kịch
· The Devil's Disciple (Đồ đệ của quỷ, 1896-1897), kịch
· Caesar and Cleopatra (Caesar và Cleopatra, 1901), kịch
· Mrs. Warren's Profession (Nghề nghiệp của bà Warren, 1902), kịch
· Man and Superman (Con người và siêu nhân, 1903), kịch
· John Bull's Other Island (Hòn đảo khác của John Bull, 1904), kịch
· Major Barbara (Thiếu tá Barbara, 1905), kịch
· The Doctor's Dilemma (Tình trạng tiến thoái lưỡng nan của người bác sĩ, 1906), kịch
· Fanny's Frist Play (Vở kịch đầu tay của Fanny, 1909), kịch
· The Shewing Up of Blanco Posnet (Vạch trần Blanco Posnet, 1909), kịch
· Misalliance (1910), kịch
· Pygmalion (1912), kịch
· Androcles and the Lion (Androcles và sư tử, 1913), kịch
· Common Sense about the War (Suy nghĩ lành mạnh về chiến tranh, 1914), tiểu luận
· Augustus does his bit (Augustus thực hiện nghĩa vụ của mình, 1917), kịch
· Heartbreak House (Ngôi nhà trái tim tan vỡ, 1919), kịch
· Back to Methuselah (Trở lại Methuselah, 1921), kịch
· Saint Joan (Nữ thánh Joan, 1923), kịch
· The Intelligent Woman's Guide to Socialism and Capitalism (Cẩm nang về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản dành cho phụ nữ, 1928), tiểu thuyết tường thuật
· The Apple Cart (Xe chở táo, 1929), kịch
· Too True To Be Good (Xấu nhưng là sự thật, 1931), kịch
· On the Rocks (Mắc cạn, 1933), kịch
· Millionainess (Nữ triệu phú, 1936), hài kịch
· Buoyant Billions (Bạc tỉ của Buoyant, 1946-1948), kịch
· Shakes versus Shaw (Shakes chống lại Shaw, 1949), kịch
· Farfetched fables (Những truyện ngụ ngôn khó tin, 1950), kịch
24 tháng 4 2013
STEPHEN COVEY - Nhà giáo dục, nhà văn, doanh nhân và diễn giả nổi tiếng
Stephen Richards Covey hay thường được gọi là Stephen R Covey (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1932 - mất ngày 16 tháng 7 năm 2012) là một nhà giáo dục, nhà văn, nhà kinh doanh và nhà diễn giả của Mỹ, ông được biết đến với cuốn sách nổi tiếng 7 thói quen của người thành đạt (The Seven Habits of Highly Effective People) cuốn sách gối đầu giường của các nhà lãnh đạo cũng như các tỉ phú thế giới.
S.R. Covey từng ở trong danh sách một trong 25 người Mỹ có ảnh hưởng nhất vào năm1996 do tạp chí Time bầu chọn. Ông luôn nhấn mạnh nhấn mạnh sự chân thật, chính trực, tin cậy, nhân ái, tinh thần cống hiến và sự tôn trọng là những giá trị cốt lõi làm nên người thành đạt.
Sự nghiệp
Stephen R. Covey sinh năm 1931 tại Utah (Mỹ), khi ở tuổi 20, ông từng tạm dừng việc học trong một thời gian để làm công việc tình nguyện. Sau đó ông khởi đầu sự nghiệp là giảng viên tại trường Đại học Brigham Young ở Utah.
Stephen Covey rời công việc giảng dạy năm 1984 để thành lập Trung tâm lãnh đạo Covey, và nhanh chóng trở thành tác giả nổi tiếng, diễn giả và nhà tư vấn có ảnh hưởng toàn thế giới.
Các tác phẩm
Cuốn sách 7 thói quen để thành đạt được ông viết vào năm 1989 đến nay đã bán được hơn 20 triệu bản trên thế giới, được dịch ra 40 ngôn ngữ khác nhau. Năm 2002, tạp chí Forbes đã đưa nó vào danh sách 10 cuốn về quản trị có ảnh hưởng nhất trên thế giới từ trước tới nay.
Ông còn có các tác phẩm khác như:
· First things first (Tư duy tối ưu)
· Principle centered leadership (Nghệ thuật lãnh đạo theo nguyên tắc)
· The 7 habits of highly effective family (7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc)
· The 8th habits (Thói quen thứ 8)
· The speed of truth (Tốc độ của niềm tin)…
Qua đời
Stephen Richards Covey qua đời vào ngày 16 tháng 7 năm 2012. Ông qua đời do sức khỏe yếu đi từ khi bị tai nạn xe đạp từ hồi tháng 4 năm 2012. Ông mất kiểm soát khi đang đi xe đạp xuống đồi ở Provo, Utah và vào viện điều trị hai tháng vì chấn thương đầu, gãy xương sườn và giập phổi.
Bạn muốn nhận quyển sách 7 THOI QUEN ĐỂ THÀNH ĐẠT (của tác giả Stephen Covey) miễn phí qua Email và tin nhắn SMS. Vui lòng nhấp vào đây.
23 tháng 4 2013
BARUCH DE SPINOZA - Nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái
Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza (24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái. Tên họ của ông có nhiều dị bản: Despinoza, d'Espinoza, de Spinoza, Spinoza, v.v...
Spinoza được coi là một trong những nhà duy lý vĩ đại nhất của triết học thế kỷ 17và là một trong những nhà luân lý học có quan điểm dứt khoát (do cuốn Luân lý học- tác phẩm lớn được xuất bản sau khi ông qua đời). Các trước tác của ông, cũng như của các nhà duy lý khác, ông đã thể hiện khả năng và trình độ toán học cao. Spinoza sống bằng nghề mài kính, một ngành kỹ thuật đã được coi là rất lý thú vào thời đó - thời kỳ mà người ta đã thu được những phát kiến lớn từ kính viễn vọng. Phải một thời gian sau khi ông qua đời, sau khi cuốn Opera Posthuma của ông được xuất bản, hiệu ứng đầy đủ của các tác phẩm của ông mới được nhận ra. Ngày nay, ông được xem là người đã đặt nền móng cho thời kỳ Khai sáng của thế kỷ 18, và là người sáng lập của chủ nghĩa phê phán Kinh thánh hiện đại. Nhà triết học Gilles Deleuze của thế kỷ 20 gọi Spinoza là "Triết gia tuyệt đối, với cuốn Luân lý học của ông là cuốn sách lỗi lạc nhất về các khái niệm" (Deleuze, 1990).
Cuộc đời
Sau khi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha vào khoảng năm 1492, nhiều người Do Thái tìm cách tị nạn tại Bồ Đào Nha, nhưng tại đây, họ cũng phải lựa chọn giữa việc chấp nhận theo đạo Ki tô hay bị trục xuất tiếp. Spinoza sinh ra tại Amsterdam, Hà Lan. Cha mẹ ông, Miguel de Espinosa và Ana Débora, là người Do Thái Sephardic, thuộc cộng đồng những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái của thành phố. Ana Débora là vợ hai của Miguel, bà qua đời khi Spinoza mới 6 tuổi. Họ là những ngườiMarranos chạy trốn khỏi Bồ Đào Nha để tránh Tòa án Dị giáo Bồ Đào Nha và trở lại với Do Thái giáo. Một số người nói rằng thực ra gia đình Spinoza có tổ tiên ở Tây Ban Nha, những người khác lại cho rằng họ là những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái đã chuyển đến Tây Ban Nha rồi quay lại quê cũ Bồ Đào Nha vào năm 1492. Tại Bồ Đào Nha, họ bị buộc phải cải đạo sang Công giáo vào năm 1498. Miguel de Spinoza, cha của Spinoza ra đời sau cuộc cải đạo cưỡng ép này 1 thế kỷ, tại Vidigueira, một thành phố nhỏ của Bồ Đào Nha gần Beja ở Alentejo. Khi cha Spinoza còn nhỏ, ông nội Spinoza là Isaac de Spinoza đã đưa cả gia đình đến Nantes, Pháp. Năm 1615, họ lại bị trục xuất và chuyển đến Roterdam, nơi Isaac qua đời năm 1627. Cha Spinoza cùng gia đình chuyển đến Amsterdam, nơi họ lấy lại tín ngưỡng Do Thái giáo của mình (Manuel thậm chí còn đổi tên thành Abraão de Spinoza, tuy vẫn giữ tên buôn bán như cũ). Cha Spinoza là một thương gia nhập khẩu phát đạt. Baruch được nuôi dạy theo truyền thống Do Thái chính thống; tuy nhiên, bản tính tò mò và tư duy phê phán của ông đã nhanh chóng xung đột với cộng đồng Do Thái. Sau khi các cuộc chiến tranh với Anh và Pháp làm tiêu hao tài sản của gia đình và sau cái chết của cha, cuối cùng ông đã có thể hoàn thành trách nhiệm với công việc kinh doanh và nợ nần với người anh trai Gabriel, và dành toàn tâm toàn ý cho triết học và quang học.
Ban đầu, ông đã bị tẩy chay do các quan điểm thách thức luật lệ Do Thái, các quan điểm này phê phán mạnh mẽ Talmud và các kinh sách khác. Nói chung, Do Thái giáo khá là khoan dung trong việc chấp nhận các hình tượng không điển hình về Chúa trời; tuy nhiên, Spinoza tin rằng Chúa trời là Thiên nhiên/Vũ trụ, một tư tưởng khác xa với bất cứ hình dung truyền thống nào về Chúa trời. Vào mùa hè năm 1656, ông nhận được cherem của cộng đồng Do Thái, (tương tự như sự rút phép thông công), vì sự bội giáo trong cách ông nhận thức về Chúa trời. Các điều khoản của cherem này khá khắc nghiệt (xem [Kasher và Biderman]): nó không bao giờ được thu hồi. Sau khi bị rút phép thông công, ông lấy tên là Benedictus, phiên bản La Tinh của tên Baruch; cả hai đều mang nghĩa "được ban phúc". Ở quê hương Amsterdam, ông còn được biết với tên Bento de Spinoza, tên thân mật của ông.
Sau khi bị rút phép thông công, người ta kể rằng Spinoza đã sống và làm việc tại trường của Franciscus van den Enden, người đã dạy ông tiếng La tinh thời trẻ và có thể đã giới thiệu ông với triết học hiện đại, mặc dù Spinoza không lần nào nhắc đến Van den Enden trong sách và thư từ. Van den Enden là một người theo trường phái Descartes và vô thần, người bị chính quyền thành phố cấm công khai truyền bá các học thuyết của mình. Từ năm 1656, sau khi đã dành toàn tâm ý cho triết học, Spinoza mong muốn mãnh liệt thay đổi thế giới qua việc thiết lập một môn phái triết học bí mật. Do kiểm duyệt, điều này chỉ trở thành hiện thực sau khi ông qua đời, nhờ sự can thiệp của các bạn hữu của ông.
Trong thời kỳ này, Spinoza còn mở các mối quan hệ với một số người Collegiant, thành viên của một giáo phái phi giáo điều và tương giao giáo lý (interdenominational), với những xu hướng của chủ nghĩa duy lý và Arianism (quan điểm thần học của Arius về quan hệ giữa Chúa Cha và Jesus). Spinoza còn liên lạc với Peter Serrarius, một thương gia Kháng cách cấp tiến. Người ta tin rằng Serrarius đã có thời gian là người bảo trợ của Spinoza. Đến đầu thập niên 1660, Spinoza đã trở nên nổi tiếng, Gottfried Leibniz và Henry Oldenburg đã đến thăm ông. Ông còn giữ liên lạc với Oldenburg trong suốt phần đời còn lại. Tác phẩm đầu tiên của Spinoza được xuất bản là Tractatus de intellectus emendatione. Từ tháng 12 năm 1664 đến tháng 6 năm 1665, Spinoza trao đổi thư từ vớiBlyenbergh, một nhà thần học amateur theo chủ nghĩa Calvin, người đã chấn vấn Spinoza về định nghĩa của cái ác. Cuối năm 1665, ông thông báo với Oldenburg rằng ông đã bắt đầu viết một cuốn sách mới, cuốn Theologico-Political Treatise (Luận về thần học chính trị), xuất bản năm 1670. Đáng lưu ý rằng Leibniz đã bất đồng quan điểm sâu sắc với Spinoza trong cuốn Refutation of Spinoza (Phản bác Spinoza) của Leibniz.\
Khi phản ứng của công chúng đối với cuốn Theologico-Political Treatise (được xuất bản giấu tên) trở nên cực kỳ bất lợi cho nhánh của ông về thuyết Descartes, Spinoza buộc phải ngừng xuất bản các tác phẩm của mình. Với một cuộc sống thận trọng và sung túc, ông đeo một chiếc nhẫn ấn khắc chữ viết tắt tên mình, một bông hồng, và từ "caute" (tiếng La Tinh, nghĩa là "thận trọng"). Luân lý học và tất cả các tác phẩm khác, trừ Principles of Cartesian Philosophy (Các nguyên lý của triết học Descartes) và Theologico-Political Treatise, đều được xuất bản sau khi ông qua đời, trong cuốn Opera Postuma, được bạn bè ông bí mật biên tập để tránh bản thảo bị tịch thu và hủy.
Khoảng năm 1661, Spinoza chuyển từ Amsterdam đến Rijnsburg (gần Leiden), sau sống tại Voorburg, rồi The Hague. Ông có cuộc sống đầy đủ từ nghề mài kính. Nhiều người kể rằng ông chế tạo những chiếc kính lúp tuyệt hảo, một số nhà sử học viết ông là một nhà làm kính mắt. Ông còn được giúp đỡ bởi những khoản tiền nhỏ nhưng định kỳ từ những người bạn thân. Ông qua đời năm 1677, trong khi vẫn đang nghiên cứu một luận đề chính trị. Cái chết sớm của ông là do bệnh phổi, có thể là bệnh nhiễm bụi silic, hậu quả của việc thở bụi thủy tinh bay ra từ những chiếc thấu kính mà ông mài. Chỉ một năm trước đó, Spinoza đã gặp Leibniz tại The Hague để bàn luận về tác phẩm triết học quan trọng nhất của ông, Luân lý học, được hoàn thành năm 1676 (Lucas, 1960). Spinoza chưa bao giờ kết hôn và ông không có con.
Tổng quan về triết học Spinoza
Hệ thống triết học của Spinoza đã đưa trật tự và sự thống nhất vào truyền thống tư tưởng cấp tiến, đem lại vũ khí sắc bén cho việc chống lại "quyền lực được công nhận". Khi còn trẻ, đầu tiên ông đã theo học thuyết nhị nguyên của Descartes rằng tâm thức và thể xác là hai chất riêng biệt, nhưng về sau ông đã thay đổi quan điểm và khẳng định rằng chúng không tách biệt mà là một thực thể đơn nhất. Ông khẳng định rằng mọi thứ tồn tại trong Thiên nhiên/Vũ trụ đều là một Thực tại (chất), và chỉ có một tập luật quy định toàn bộ thực tại quanh ta mà ta là một phần của thực tại đó. Spinoza lý luận rằng Chúa trời và Thiên nhiên là hai cái tên của cùng một thực tại, đó là chất duy nhất - cái là cơ sở của vũ trụ, và là cái mà mọi "thực thể" kém hơn thực ra là các dạng thức (mode) và biến thể của nó; rằng việc mọi vật tồn tại và việc cái này là nguyên nhân gây ra cái khác đều là do Thiên nhiên quyết định; và rằng người ta chỉ hiểu được một phần của chuỗi nhân quả phức tạp. Ông còn cho rằng việc con người tự cho là mình có ý chí tự do là kết quả của nhận thức về lòng ham muốn trong khi không có khả năng hiểu được lý do tại sao họ lại muốn những gì mình muốn và hành động như những gì họ làm.
Spinoza khẳng định rằng "Deus sive Natura" ("Chúa trời hay Thiên nhiên") là một thực thể gồm vô hạn các thuộc tính, tư duy và phần mở rộng là hai thuộc tính trong đó. Từ đó, trong quan niệm của ông về bản chất của thực tại, hai thế giới vật chất và tinh thần có vẻ được xem là hai "thế giới con" tồn tại song song, không có phần chung nhau cũng như không giao nhau. Đây là một giải pháp phiếm tâm luận (panpsychist) quan trọng trong lịch sử để giải quyết vấn đề tâm-thân, giải pháp này được biết với tên thuyết nhất nguyên trung hòa (neutral monism). Các kết quả của hệ thống triết học Spinoza còn đem lại hình dung về một vị Chúa trời không cai trị vũ trụ bằng quyền năng, mà chính Chúa trời lại là một phần của hệ thống tất định mà mọi thứ trong thiên nhiên đều là một phần của hệ thống này. Do đó, Chúa trời là thế giới tự nhiên và không có tính cá nhân.
Spinoza đã là một người triệt để theo thuyết quyết định, ông cho rằng toàn bộ những gì xảy ra đều là qua hoạt động của tính cần thiết. Đối với ông, hành vi của con người là hoàn toàn được định trước, trong đó sự tự do là năng lực để biết rằng ta đã được định sẵn và để hiểu tại sao ta hành động như những gì ta làm. Do đó, tự do không phải khả năng từ chối những gì xảy đến với ta, mà là khả năng chấp nhận và hiểu biết đầy đủ về lý do tại sao mọi sự lại cần phải xảy ra như vậy. Bằng cách hình thành "đủ" ý niệm về hành động, cảm xúc hay tình cảm của mình, ta trở nên nguyên nhân "đầy đủ" của các kết quả của mình (nội tại hay ngoại vi), dẫn tới việc tăng tính chủ động (thay vì bị động). Điều đó có nghĩa là ta trở nên vừa tự do hơn vừa giống Chúa trời hơn, như tranh luận của Spinoza trong Scholium to Prop. 49, Phần II. Tuy nhiên, Spinoza còn khẳng định rằng mọi sự nhất thiết phải xảy ra như nó xảy ra. Do đó, không có ý chí tự do.
Triết học của Spinoza có nhiều điểm chung với chủ nghĩa khắc kỷ, ở chỗ cả hai trường phái triết học đều tìm cách thực hiện một vai trò chữa bệnh bằng cách hướng dẫn người ta cách đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, Spinoza có điểm khác biệt lớn đối với các triết gia khắc kỷ ở một khía cạnh quan trọng: ông phủ nhận hoàn toàn quan điểm rằng lý tính có thể chiến thắng cảm xúc. Ngược lại, ông khẳng định rằng một cảm xúc chỉ có thể bị thay thế hoặc làm mờ nhạt bởi một cảm xúc mạnh hơn. Đối với ông, điểm khác biệt cốt yếu là giữa các cảm xúc chủ động và bị động, cảm xúc chủ động là các cảm xúc được hiểu bằng lý tính, còn cảm xúc bị động thì không. Ông còn cho rằng tri thức về các nguyên nhân chân thực của cảm xúc bị động có thể biến nó thành một cảm xúc chủ động. Ở đây, ông đã thấy trước một trong các tư tưởng then chốt của phân tâm học Sigmund Freud.
Một số quan điểm triết học của Spinoza:
· Thế giới tự nhiên là vô hạn.
· Thiện và ác là các định nghĩa của Con người, không phải của thiên nhiên.
· Bất cứ điều gì mà con người và động vật làm đều là tuyệt vời và thần thánh.
· Mọi quyền lợi đều xuất phát từ Nhà nước.
Luân lý học
Phần mở đầu tác phẩm Luận về sự nâng cao hiểu biết (Tractatus de intellectus emendatione) đã gói trọn cốt lõi của luân lý học Spinoza, cái mà ông cho là cái thiện chân thực và cuối cùng. Spinoza có một lập trường của người theo chủ nghĩa tương đối, rằng không có gì mà tự nó là tốt hay xấu, ngoại trừ mức độ tốt xấu chủ quan mà từng cá nhân nhận thức về nó. Sự vật chỉ là thiện hay ác theo cách mà con người muốn áp dụng các khái niệm này cho vật chất. Thay vào đó, Spinoza tin vào vũ trụ tất định của ông mà "mọi vật trong thiên nhiên tiến triển do một sự cần thiết nhất định với một sự hoàn hảo tột bực." Do đó, trong thế giới của Spinoza, không có gì xảy ra một cách tình cờ, và lý tính không có tác dụng cho sự tình cờ. Trong vũ trụ, bất cứ điều gì xảy ra đều xuất phát từ bản chất của các đối tượng, hay bản chất của Chúa trời/Thiên nhiên. Do đó, theo Spinoza, sự hoàn hảo là rất lớn. Nếu hoàn cảnh được xem là bất hạnh thì đó chỉ là do nhận thức không đầy đủ của ta về thực tại. Tuy các phần tử của chuỗi nhân quả không vượt ra ngoài tầm hiểu biết của lý tính con người, nhưng khả năng nắm bắt cái toàn thể vô cùng phức tạp lại có hạn, do các hạn chế của khoa học trong việc xem xét toàn bộ chuỗi nhân quả bằng thực nghiệm. Spinoza còn khẳng định rằng, tuy là cơ sở của mọi ý nhiệm, nhưng nhận thức bằng giác quan chỉ dẫn tới sai lầm, vì chúng ta không biết được những nguyên nhân quyết định ước muốn và hành động của mình. Khái niệm "conatus" của ông - bản năng sinh tồn và phát triển của con người, và khẳng định rằng sức mạnh của đức hạnh/con người được định nghĩa bởi thành công của ta trong việc bảo tồn sự sống theo hướng dẫn của lý tính, đó chính là học thuyết luân lý học trung tâm của ông; đức hạnh cao nhất là tình yêu tri thức hay tri thức về Chúa trời/Thiên nhiên/Vũ trụ. Trong phần cuối của tác phẩm Luân lý học, mối quan tâm của ông đến ý nghĩa của "sự ban phúc chân chính" (true bless), cùng với cách tiếp cận và giải thích độc đáo của ông về việc phải tách các cảm xúc phải khỏi nguyên nhân ngoại vi như thế nào để làm chủ được chúng, là những đoạn rất đặc biệt, với nội dung tiên đoán các kỹ thuật tâm lý của thế kỷ 20. Khái niệm của ông về ba loại tri thức - quan điểm, lý tính, trực giác - và khẳng định rằng tri thức trực giác mang lại sự thỏa mãn cao nhất về tâm thức, dẫn đến đề xuất của ông rằng chúng ta càng ý thức được về bản thân và Thiên nhiên/Vũ trụ thì ta càng hoàn hảo và hạnh phúc sung sướng (trong thực tại), và rằng chỉ có tri thức trực giác là vĩnh cửu. Spinoza đã có đóng góp lớn lao cho hiểu biết về sự hoạt động của tâm thức, ngay cả trong thời kỳ của các phát triển triết học cấp tiến, các quan điểm của ông đã tạo nên một chiếc cầu nối giữa quá khứ thần bí của các tôn giáo và tâm lý học của thời hiện đại.
Tranh cãi về thuyết phiếm thần (Pantheismusstreit)
Năm 1785, Friedrich Heinrich Jacobi công bố một bài chỉ trích thuyết phiếm thần của Spinoza, sau khi Lessing được cho là đã thú nhận trên giường lâm chung rằng mình là người theo chủ nghĩa Spinoza, vào thời đó điều này tương đương với việc được gọi là người vô thần. Jacobi khẳng định rằng học thuyết của Spinoza là thuần túy duy vật chủ nghĩa, vì tất cả Thiên nhiên và Chúa trời đều được coi là chẳng là gì ngoài chất được mở rộng. Đối với Jacobi, điều này là kết quả của chủ nghĩa duy lý Khai sáng và nó sẽ đi đến kết cục là thuyết vô thần tuyệt đối. Moses Mendelssohn không đồng ý với Jacobi, ông cho rằng không có khác biệt thực sự nào giữathuyết hữu thần và thuyết phiếm thần. Thời đó, toàn bộ vấn đề đã trở thành một mối quan tâm chính về tôn giáo và tri thức đối với nền văn minh Châu Âu. Nhưng Immanuel Kant đã phủ nhận, khi ông cho rằng các cố gắng để nhận thức thực tại siêu nghiệm sẽ dẫn đến sự tự mâu thuẫn trong tư duy.
Sự hấp dẫn của triết học Spinoza đối với người châu Âu vào cuối thế kỷ 18 là ở chỗ: nó cung cấp một sự thay thế cho chủ nghĩa duy vật, thuyết vô thần, và thần thánh. Họ đặc biệt bị cuốn hút bởi ba trong số các tư tưởng của Spinoza:
· sự thống nhất của tất cả những gì tồn tại;
· tính quy tắc của tất cả những gì xảy ra; và
· định danh của tinh thần và thiên nhiên.
"Chúa trời hay Thiên nhiên" của Spinoza đã mang lại một vị Chúa trời tự nhiên, sống động, đối lập với Nguyên nhân Đầu tiên mang tính cơ học của Newton (Newtonian mechanical First Cause) hay cơ chế chết của cái "Máy Con người" ("Man Machine") của người Pháp.
Ảnh hưởng hiện đại
Châu Âu cuối thế kỷ 20 đã thể hiện một mối quan tâm lớn hơn về triết học Spinoza, thường từ một góc nhìn cánh tả hay Marxist. Các triết gia nổi bật như Gilles Deleuze, Antonio Negri, Étienne Balibar và triết gia người Brazile Marilena Chauí đã viết sách về Spinoza. Luận án tiến sĩ của Deleuze xuất bản năm 1968 gọi ông là "ông hoàng của các nhà triết học". (Deleuze, 1968). Các triết gia khác chịu ảnh hưởng lớn của Spinoza gồm có Constantin Brunner và John David Garcia. Stuart Hampshire viết một nghiên cứu lớn về Spinoza, tuy tác phẩm của H. H. Joachim cũng có giá trị ngang bằng. Không như các triết gia khác, Spinoza và các tác phẩm của ông đã đượcNietzsche đề cao.
Spinoza còn có ảnh hưởng vượt ra ngoài ranh giới của triết học. George Eliot, tiểu thuyết gia thế kỉ 19, đã dịch Luân lý học, bản dịch đầu tiên sang tiếng Anh được biết đến. W. Somerset Maugham, tiểu thuyết gia thế kỉ 20, đã bóng gió nhắc tới khái niệm trung tâm của Spinoza trong tựa đề tiểu thuyết của ông, Of Human Bondage (Về sự trói buộc con người). Albert Einstein gọi Spinoza là nhà triết học đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới quan của ông. Spinoza đã đặt Chúa trời (chất vô hạn) với Thiên nhiên, thống nhất với niềm tin của Einstein vào một vị thần phi cá thể. Năm 1929, Rabbi Herbert S. Goldstein đánh điện hỏi Eistein về chuyện ông có tin vào Chúa trời hay không. Einstein đã trả lời bằng bức điện có nội dung "Tôi tin vào vị Chúa trời của Spinoza, vị Chúa thể hiện mình trong sự hài hòa trật tự của những gì tồn tại, tôi không tin vào một vị Chúa quan tâm đến số phận và hành động của con người.". Thuyết phiếm thần của Spinoza còn ảnh hưởng lên lý thuyết môi trường. Arne Næss, người khai sinh phong trào sinh thái sâu (deep ecology), đã thừa nhận rằng Spinoza là một nguồn cảm hứng quan trọng. Xa hơn nữa, nhà văn người Argentina Jorge Luis Borges đã chịu ảnh hưởng lớn bởi thế giới quan của Spinoza. Trong nhiều bài thơ và truyện ngắn, ông liên tục nói bóng gió về tác phẩm của nhà triết học, không phải với vai trò một người ủng hộ các học thuyết của Spinoza, mà chỉ nhằm sử dụng các học thuyết này cho các mục đích mỹ học. Ông đã làm điều này nhiều lần với tất cả nhà triết học mà ông ngưỡng mộ.
Spinoza là một nhân vật lịch sử quan trọng tại Hà Lan, nơi chân dung của ông được vẽ trên tờ bạc 1000-guilder được dùng cho đến khi đồng euro được đưa vào sử dụng năm 2002. Giải thưởng khoa học cao quý nhất của Hà Lan có tên Spinozapremie (Giải thưởng Spinoza).
Các tác phẩm và nhân cách của Spinoza được nói đến trong cuốn sách của Matthew Stewart: The Courtier and the Heretic: Leibniz, Spinoza, and the Fate of God in the Modern World (Cận thần và kẻ dị giáo: Leibniz, Spinoza, và số phận của Chúa trời trong thế giới hiện đại) .
Harriet Elizabeth Beecher Stowe - Nhà văn người Mỹ gốc Âu, tích cực ủng hộ chủ nghĩa bãi nô
Harriet Elizabeth Beecher Stowe (14 tháng 6 năm 1811 – 1 tháng 7 năm 1896) là một nhà văn người Mỹ gốc Âu tích cực ủng hộ chủ nghĩa bãi nô. Tác phẩm Uncle Tom's Cabin (Túp lều của Bác Tom, 1852) của bà công kích sự tàn bạo của chế độ nô lệ; tác phẩm này đến với hàng triệu người trong dạng tiểu thuyết và kịch nghệ, gây ảnh hưởng lớn ở Vương quốc Anh, làm sáng tỏ các yếu tố chính trị trong thập niên 1850 về vấn đề nô lệ đối với hàng triệu người, cũng như củng cố phong trào bãi nô ở miền Bắc, nhưng lại khiến miền Nam phẫn nộ. Tổng tống Abraham Lincoln tóm tắt ảnh hưởng của tác phẩm này khi tiếp kiến Stowe, đã nói, "Vậy ra bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách gây ra cuộc chiến vĩ đại này!”.
Tiểu sử
Chào đời với tên Harriet Beecher ở Litchfield, Connecticut, bà là con gái của Lyman Beecher, nhà thuyết giảng thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn theo chủ nghĩa bãi nô sinh trưởng ở Boston, và Roxana Foote Beecher (Roxana qua đời khi Harriet mới lên bốn), và là em của vị mục sư danh tiếng Henry Ward Beecher. Ngoài ra, bà có hai người em là những nhà hoạt động xã hội nổi tiếng: Charles Beecher và Isabella Beecher Hooker.
Năm 1832, gia đình bà dời về Cincinnati, nơi có nhiều hoạt động bãi nô. Ở đấy người cha trở thành viện trưởng đầu tiên của Chủng viện Thần học Lane. Ở đấy, bà được nghe những câu chuyện kể về chế độ nô lệ và Tuyến Hỏa xa ngầm (Underground Railroad) - những hoạt động bí mật giải thoát nô lệ đưa lên miền Bắc - và chịu cảm động để sáng tác tiểu thuyết Túp lều của Bác Tom, tác phẩm lớn đầu tiên xuất bản ở Mỹ có nhân vật chính là một người Mỹ gốc Phi. Harriet chưa bao giờ đến thăm các đồn điền, nhưng có nhiều tiếp xúc với những người từng là nô lệ.
Năm 1836, Harriet Beecher kết hôn với Calvin Ellis Stowe, một mục sư đã góa vợ. Hai người dời về sống ở Brunswick, Maine, khi ông nhậm chức giáo sư tại trường Đại học Bowdoin. Harriet và Calvin có bảy người con, nhưng trong đó bốn người qua đời trước bà. Hai con đầu tiên, Hattie và Eliza, sinh đôi ngày 29 tháng 9 năm 1836. Bốn năm sau, vào năm 1840, con trai Frederick William chào đời. Năm1848, Samuel Charles sinh ra, nhưng năm sau cậu bé bị chết vì dịch tả. Trong nỗi đau đớn vì mất con trai Samuel, bà thấy mình có đồng tâm trạng với những bà mẹ nô lệ mất con khi chứng kiến con cái mình bị bắt đem đi bán. Đây là lý do chính thúc giục bà viết Túp lều của Bác Tom; trong đó có đoạn viết về người phụ nữ nô lệ Eliza Harris bỏ trốn sau khi con trai của bà bị tách rời khỏi mẹ để đem đi bán.
Theo nhận xét của Elizabeth Ammons, “Nếu Beecher là nam giới, có lẽ bà đã tiếp bước cha để trở thành mục sư. Nhưng bà là vợ mục sư và là chị của các mục sư. Bà nhìn nhận rằng chính nhiệt tâm Cơ Đốc đã thúc giục bà viết quyển Túp lều của Bác Tom. Gia đình Stowe không giàu có, nên cuộc sống của Harriet là một sự tranh chấp giữa công việc bộn bề của một người mẹ với nghiệp văn chương. Có bảy đứa con, bà vừa chăm sóc con vừa viết văn”
Stowe cố sức trang trải các khoản chi tiêu trong gia đình bằng cách viết cho các tờ báo định kỳ ở địa phương. Suốt trong cuộc đời, bà làm thơ, viết sách du lịch, sơ thảo sách tiểu sử, viết sách cho trẻ em, cũng như sáng tác tiểu thuyết. Bà đã gặp gỡ và trao đổi thư tín với các nhân vật tiếng tăm trên văn đàn như Lady Byron, Oliver Wendell Holmes, và George Eliot.
Dù đã viết ít nhất là mười quyển tiểu thuyết, Harriet Beecher Stowe được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Túp lều của Bác Tom (năm 1852). Khởi đầu chỉ là một truyện dài được đăng từng kỳ trên một tuần báo chủ trương bãi nô ở Washington, tờ National Era, tác phẩm này đã thu hút sự chú ý của công luận và bị cuốn vào các cuộc tranh cãi. Stowe viết quyển “Túp lều của bác Tom” dựa trên kinh nghiệm bản thân: bà quen thuộc với chủ đề nô lệ, với phong trào bãi nô, và tuyến hỏa xa ngầm bởi vì Kentucky, nơi Stowe từng sinh sống, là một tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi quyển sách được ấn hành, bà trở thành nhân vật nổi tiếng, đi khắp nước Mỹ và Âu châu để diễn thuyết về chủ đề nô lệ.
"Hầu hết các bà mẹ đều là những nhà hiền triết bẩm sinh."
Harriet Beecher Stowe, The Minister's Wooing (1859)
Một mặt, văn phong trong “Túp lều của bác Tom” thể hiện tình cảm Cơ Đốc lãng mạn, rất được yêu thích vào lúc ấy, nhưng khó tìm được sự đồng cảm của độc giả đương đại. Mặt khác, Stowe là một trong số các nhà văn hiện thực tiên phong. Bối cảnh các câu chuyện của bà thường được miêu tả chính xác đến từng chi tiết. Bà khắc họa chân dung đời sống xã hội đương thời với nhiều chi tiết xác thực, thể hiện sự nhận thức sâu sắc về tính phức tạp của nền văn hóa bà đang sống, cũng như khả năng chuyển tải những đặc điểm văn hóa ấy đến người đọc.
Túp lều của Bác Tom
Năm 1850, việc thông qua Đạo luật Nô lệ Bỏ trốn (Fugitive Slave Law) đã thúc đẩy Stowe tham gia tích cực phong trào bãi nô. Người em dâu của Stowe gởi cho bà một lá thư, trong đó có đoạn viết, "Harriet, nếu có được văn tài như chị, tôi sẽ viết một điều gì đó khiến cả dân tộc này phải thấy rõ chế độ nô lệ là đáng nguyền rủa biết bao." Sau khi lớn tiếng đọc bức thư trước những đứa con của bà, Harriet đột ngột vò nát miếng giấy trong tay và nói "Tôi sẽ viết cái gì đó bao lâu tôi còn sống”. Có người cho rằng, khi đang ngồi trong nhà thờ, Harriet cảm nhận được hình ảnh "cái chết của Bác Tom" và bị xúc động đến rơi lệ. Ngay lập tức, bà về nhà và bắt tay viết cuốn sách.
Stowe khởi sự nghiên cứu về chế độ nô lệ. Bà tìm cách tiếp xúc và nói chuyện với các nô lệ đã đào thoát, cũng như với các chủ nô về mọi khía cạnh của vấn đề nô lệ, bà cũng đọc vài cuốn sách về chủ đề này. Năm 1851, với sự giúp đỡ của William Lloyd Garrison, chủ biên tờ nhật báo có chủ trương bãi nô The Liberator (Báo Giải phóng), Stowe bắt đầu xuất bản các truyện ngắn hư cấu. Chúng được ra từng số trong năm 1851 trên tờ báo bãi nô The National Era (báo Thời kỳ Quốc gia) ở Cincinnati dưới tên "Uncle Tom's Cabin" hay "Life Among the Lowly" (Cuộc sống giữa những người thấp hèn). Nhân vật chính được cho là phỏng theo Josiah Henson, người đã xuất bản quyển tự truyện về cuộc sống nô lệ. Theo yêu cầu của độc giả và của chồng – ông tin rằng truyện của bà có sức mạnh thay đổi chính kiến của nhiều người – bà cho xuất bản các truyện ngắn thành hai tuyển tập trong năm 1852. Trong vòng một tuần lễ sau khi được phát hành ở Mỹ, sách của bà bán được 10.000 bản – một hiện tượng vào thời đó – con số này lên đến 300.000 bản trong năm đầu tiên. Tại Anh, số ấn bản được bán ra còn cao hơn. Đến năm 1854, sách của bà được dịch ra 60 ngôn ngữ.
Tác phẩm của Stowe tạo được ảnh hưởng đáng kinh ngạc tại miền Bắc Hoa Kỳ. Có thêm hàng ngàn người ủng hộ phong trào bãi nô. Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giữa miền Bắc và miền Nam càng bị khoét sâu hơn. Miền Nam cho rằng tác phẩm này không miêu tả chính xác cuộc sống miền Nam, xem nó là sự cáo buộc dành cho các định chế xã hội tại đây, và ban hành những biện pháp khắt khe như cấm phổ biến và bắt giữ bất cứ ai sở hữu tác phẩm này. Đồng thời, miền Nam cho xuất bản những cuốn sách châm biếm nhằm ca ngợi các lợi ích của chế độ nô lệ, bao gồm quyển "Aunt Phillis's Cabin; or Southern Life as it is" (Túp lều của Dì Phillis; hoặc Sự thật về Cuộc sống ở miền Nam). Stowe tập hợp thêm thông tin và trả lời bằng tác phẩm "A Key to Uncle Tom's Cabin" (Chú giải Túp lều của Bác Tom). Bà viết sách này để chứng tỏ rằng bà đã nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề nô lệ. Tuy nhiên, dù được viết cho miền Nam, nó không được đọc rộng rãi ở đấy như ở các nơi khác.
Ngược lại, ở bên kia bờ đại dương tại nước Anh, thông điệp của "Bác Tom" được chấp nhận rộng rãi, nhờ sự ủng hộ từ lúc ban đầu của một nhân vật có nhiều ảnh hưởng tại Luân Đôn, James Sherman, một mục sư thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn và là người ủng hộ phong trào bãi nô. Năm 1853, Stowe đi vòng quanh châu Âu để diễn thuyết về tác phẩm của bà. Khi tới Anh, bà được đón tiếp nồng hậu và được nghe một bức thư gọi là Kiến nghị về Lòng Nhân ái và Cơ Đốc giáo (Affectionate and Christian Address), của Hội Chống Nô lệ với hơn nửa triệu chữ ký ủng hộ của các thành phần trong xã hội, từ những nữ quý tộc cho đến các nông dân. Nội dụng bản kiến nghị và các chữ ký được chứa đựng trong 26 quyển sách là tặng phẩm gởi đến Harriet; thư trả lời của bà được in trong tạp chíThe Atlantic Monthly. Chủ tịch Hội Chống Nô lệ, Nữ công tước Sutherland, cũng trở thành bạn thân với Stowe.
"Càng hiến mình cho chân lý thì càng phải thận trọng, luôn tự xét mình, và hết sức nhẫn nại. Tôi không bao giờ đả kích niềm tin của người khác khi không thể cống hiến cho họ một xác tín tốt hơn, bởi vì có một niềm tin vẫn tốt hơn là không có gì”
Harriet Beecher Stowe, Thư gởi William Lloyd Garrison
Vào đầu cuộc Nội chiến Hoa Kỳ năm 1861, việc Vương quốc Anh xem xét lập trường hậu thuẫn miền Nam khiến Stowe nỗ lực nhắc nhở người dân Anh về lời hứa của họ ủng hộ các nộ lệ. Nhờ đó nước Anh giữ thái độ trung lập suốt chiến tranh. Trong nhật ký, Stowe ghi lại những suy nghĩ của bà về cuộc Nội chiến. Bà viết: "Ấy là do ý chỉ của Thiên Chúa mà quốc gia này – cả miền Bắc và miền Nam – phải gánh chịu nhiều đau đớn và khổ nạn vì tội đồng tình và khuyến khích tình trạng áp bức hà khắc tại miền Nam... máu của những người nô lệ đáng thương đã đổ ra trên đất kêu gào vô vọng suốt nhiều năm qua, nay cần được đáp lời bởi máu của những người con của tất cả tiểu bang tự do, là những người chấp nhận rời bỏ ngôi nhà ấm êm để tham gia cuộc chiến”. Năm 1862, Stowe đến gặp Lincoln và yêu cầu tổng thống nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy công cuộc giải phóng nô lệ. Con gái của bà, Hatty, có mặt trong buổi hội kiến giữa Stowe và Lincoln, thuật lại rằng câu nói đầu tiên Lincoln thốt ra là "Vậy ra bà là người phụ nữ nhỏ bé đã viết nên tác phẩm gây ra cuộc chiến vĩ đại này”
Cuối đời
Về sau, Harriet Beecher Stowe viết trong nhật ký: "Tôi đã viết như thế bởi vì trong tư cách một phụ nữ và một bà mẹ, tôi phẫn nộ và đau đớn khi chứng kiến những đau khổ và bất công, là một Kitô hữu tôi nhận biết Kitô giáo đang bị xúc phạm, là một người yêu nước tôi khiếp đảm vì cớ những ngày [đất nước này bị đặt dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa] đang đến gần”
Nhiều sử gia tin rằng Túp lều của Bác Tom là nhân tố quan trọng dẫn đến cuộc nội chiến, là cuộc chiến đã giúp xóa bỏ chế độ nô lệ ở nước Mỹ. Sau khi Đạo luật Nô lệ Bỏ trốn được thông qua, Harriet Beecher Stowe tích cực giúp đỡ các nô lệ bỏ trốn. Sau khi kết thúc cuộc nội chiến, bà thành lập vài trường học và trường nội trú cho những nô lệ mới được tự do. Ảnh hưởng của Harriet Beecher Stowe tác động tới mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, từ các viên chức chính phủ, giới quý tộc đến người bình dân. Trong suốt cuộc đời mình, bà viết rất nhiều, và ảnh hưởng của bà vượt xa hơn câu chữ. Một cuốn sách của bà mang tên How to Live on Christ (Sống theo Chúa Kitô) có ảnh hưởng sâu đậm trên nhà truyền giáo Hudson Taylor ở Trung Quốc đến nỗi ông đã gửi ấn bản tác phẩm này cho từng thành viên phục vụ trong Hội Truyền giáo Nội địa Trung Quốc (China Inland Mission) vào năm 1869.
Sau đó, Harriet dời về Hartford, Connecticut, sống trong khu dân cư có tên là Nook Farm (Trại Góc). Bà lưu trú tại đây trong 23 năm cuối đời. Harriet Beecher Stowe từ trần ngày 1 tháng 7 năm 1896 và, giống Rosa Parks của thế kỷ 20, tang lễ của bà được cử hành trọng thể. Bà được an táng tại Học viện Phillips ở Andover, Massachusetts.
Ngôi nhà Harriet Beecher Stowe tại Connecticut, nơi bà sinh sống trong 23 năm cuối đời là một ngôi nhà kiểu thôn dã rộng 5.000 bộ vuông chứa đựng nhiều vật dụng của Harriet trong các thời kỳ khác nhau. Trong thư viện được mở cửa cho công chúng có nhiều thư từ và tài liệu được cung cấp bởi Gia tộc Beecher.
Còn Ngôi nhà Harriet Stowe tại Ohio là nhà của Lyman Beecher, thân phụ của Harriet, nằm trong khuôn viên của khu vực trước đây là khu học xá của Chủng viện Lane. Harriet đã sống ở đây cho đến khi kết hôn. Ngôi nhà này được mở cửa cho công chúng như là một địa điểm văn hóa và lịch sử, tập chú vào Harriet Beecher Stowe, Chủng viện Thần học Lane, và Tuyến Hỏa xa Ngầm. Đây cũng là nơi trình bày lịch sử Người Mỹ gốc Phi. Ngôi nhà Harriet Beecher Stowe tại Cincinnati tọa lạc tại 2950 Gilbert Avenue, Cincinnati, OH 45206.
Một số tác phẩm
· The Mayflower; or, Sketches of Scenes and Characters Among the Descendants of the Pilgrims (1834)
· Uncle Tom's Cabin (1852)
· A Key to Uncle Tom's Cabin (1853)
· Dred, A Tale of the Great Dismal Swamp (1856)
· The Minister's Wooing (1859)
· The Pearl of Orr's Island (1862)
· Dưới bút danh "Christopher Crowfield"
· House and Home Papers (1865)
· Little Foxes (1866)
· The Chimney Corner (1868)
· Men of Our Times (1868)
· Old Town Folks (1869)
· Little Pussy Willow (1870)
· Lady Byron Vindicated (1870)
· My Wife and I (1871)
· Pink and White Tyranny (1871)
· Palmetto-Leaves (1873)
· We and Our Neighbors (1875)
· Poganuc People (1878)
ĐỌC NHIỀU
-
[KINH SÁCH – MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH | KỲ 7] “Sách là người bạn trung thành và yên tĩnh nhất, chúng là những nhà cố vẫn dễ tiếp cận và khôn ng...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
Joseph Priestley - là một nhà triết học tự nhiên, nhà hóa học, nhà ngữ pháp, giáo viên đa ngành Joseph Priestley - là một nhà triết học ...
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Phạm Công Tắc – tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những nhà lãnh đạo hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài Chân dung Danh Nh...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Albert Einstein – Nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Ein...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CÔNG CHÚA
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PLATON
- S
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- THÁI LAN
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia