Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN S. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN S. Hiển thị tất cả bài đăng
23 tháng 4 2013
Lawrence Henry Summers (sinh ngày 30/11/1954) là một học giả kinh tế, nhà chính trị của Hoa Kỳ. Ông là Thư ký Hội đồng Kinh tế Quốc gia trong chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ thứ 44 Barack Obama. Ông từng nhận giải John Bates Clark vì những đóng góp của ông cho lý luận kinh tế học, từng là nhà kinh tế trưởng của Nhóm Ngân hàng Thế giới, là hiệu trưởng Đại học Harvard và hiện vẫn là giáo sư kinh tế của Đại học Harvard. Ông cũng từng là Bộ trưởng Tài chính (Hoa Kỳ) trong nội các của Tổng thống Bill Clinton. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa.
Tiểu sử
Lawrence Summers sinh tại New Haven, Connecticut. Cha và mẹ ông đều là giáo sư kinh tế của Đại học Connecticut. Ông có họ hàng với hai nhà kinh tế đoạt giải Nobel là Paul Samuelson và Kenneth Arrow (cha của Lawrence là Robert là anh em ruột của Paul Samuelson nhưng đã đổi họ từ Samuelson thành Summers; còn mẹ là Anita, tên thời con gái là Anita Arrow, là em gái của Kenneth Arrow).
Khi mới 16 tuổi, Lawrence Summers đã trở thành sinh viên ngành vật lý của Đại học Harvard, nhưng ông sớm chuyển sang theo đuổi ngành kinh tế học. Năm 1982, ông nhận học vị tiến sĩ kinh tế tại trường Harvard (giáo sư hướng dẫn là Martin Feldstein). Từ đó ông trở thành giảng viên kinh tế học của cả Đại học Harvard lẫn Học viện công nghệ Massachusetts. Năm 1983, khi mới 28 tuổi, ông là giáo sư trẻ vào loại nhất của Đại học Harvard.
Học giả kinh tế
Với tư cách là học giả kinh tế, Lawrence Summers là người nổi tiếng. Ông đã có những đóng góp quan trọng về mặt học thuật trong các lĩnh vực tài chính công, kinh tế học lao động, tài chính tiền tệ, kinh tế học vĩ mô. Năm 1987, ông là học giả lĩnh vực khoa học xã hội đầu tiên được Quỹ Khoa học Quốc gia (Hoa Kỳ) trao giải Alan T. Waterman. Năm 1993, ông được Hội Kinh tế Hoa Kỳ trao giải John Bates Clark. Hiện ông là viện sĩ Viện Hàm lâm Khoa học Quốc gia (Hoa Kỳ).
Quan chức
Summers từng là thành viên Hội đồng tư vấn kinh tế cho Ronald Reagan từ năm 1982 đến 1983, từng là cố vấn kinh tế cho Dukakis trong chiến dịch tranh cử năm 1988.
Năm 1991, Summers được bổ nhiệm làm nhà nghiên cứu trưởng của Nhóm Ngân hàng Thế giới cho đến năm 1993.
Năm 1995, ông được bổ nhiệm là Thứ trưởng Bộ Tài chính (phó cho Robert Rubin) và từ năm 1999 làm Bộ trưởng thay Rubin.
Năm 2001, ông trở về Đại học Harvard làm hiệu trưởng và ở vị trí đó cho đến năm 2006.
ADAM SMITH - Nhà kinh tế chính trị và triết gia đạo đức người Scotland
Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.
Nhờ lý thuyết về kinh tế học của Adam Smith, Charles Dickens đã đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và Henry Adams. Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa tới cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga xảy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Liên bang Xô viết sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và "Bản tuyên ngôn độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị của thế giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia và nền triết học về "của cải” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam Smith đã nhìn thấy một bàn tay vô hình chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.
Cuộc đời của Adam Smith
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời. Vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của ông.
Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1.500 người gần thành phố Edinburg, xứ Scotland.
Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Di Gan sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.
Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học hai trường đại học Oxford và Cambridge; trong thời gian từ năm 1751 đến 1764, ông là giáo sư của trường Đại học Glasgow, vào thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng. Giảng dạy tại đại học này có giáo sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý, là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Latin. Các quan điểm về kinh tế và triết học của Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói rằng "không bao giờ có thể quên được tiến sĩ Hutcheson". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học để quán triệt các tư tưởng triết học cổ điển và đương thời. Họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các quan hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm giảng sư tại Đại học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lecture), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học tới ngành kinh tế chính trị. Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp chí Gentleman's Magazine đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Scotland".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm giáo sư Lý luận (professor of logic) tại Đại học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành giáo sư môn triết học luân lý, một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên, đạo đức học, luật học và kinh tế chính trị học.
Thời gian đảm nhận chức vụ giáo sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm trưởng khoa. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành hóa học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện hàn lâm Kiểu mẫu Anh quốc (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại học Glasgow, người sáng lập ra Câu lạc bộ Kinh tế chính trị (Political Economy Club). Nhờ đó, Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia.
Vào năm 1767, ông được bầu vào Hàn lâm viện Hoàng gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Bàn về tài sản quốc gia" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Adam Smith mất ngày 17 tháng 7 năm 1790 tại Edinburgh, Scotland; cả đời không kết hôn và cũng không có con.
Adam Smith với tư cách là một triết gia đạo đức
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa.
Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi và tự bảo tồn. Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm Các tình cảm luân lý, Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia: "con người tự tìm kiếm mình thường bị dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình ... mà không hay biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.
Tác phẩm Lý thuyết về các tình cảm luân lý(*) đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moskva. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ trưởng Thương mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức Hầu tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.
Adam Smith với tư cách là học giả kinh tế chính trị
Adam Smith không phải là người đầu tiên nghiên cứu lý luận kinh tế, nhiều tư tưởng nổi tiếng cũng không phải do một mình ông tìm ra. Nhưng ông là người đầu tiên hoàn chỉnh, hệ thống hóa lý luận, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của kinh tế học. Tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia là khởi điểm đầu của nghiên cứu chính trị kinh tế học hiện đại.
Tư tưởng kinh tế của Adam Smith chịu ảnh hưởng lớn của của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông. Nhưng ông vượt lên và phê phán họ.
Giữa thế kỷ 18, giới quý tộc địa chủ đã nắm giữ chính quyền, nhưng hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia đã đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan cao, không cho tiền tệ ra khỏi xứ, tiền công lao động phải được duy trì ở mức thấp và giờ lao động phải dài... Tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy vàng và bạc. Muốn có hai kim loại quý này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa. Họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác. Họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì có giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất khẩu nhiều sản phẩm chế tạo, nhập khẩu nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ. Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của chủ nghĩa trọng thương là sai lầm và có hại.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại học Glasgow rồi cùng vị Hầu tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài sản của các quốc gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Genève và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là đại sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai sáng Pháp (French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế (chủ nghĩa trọng nông) và Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao, nhất là ông đã tiếp thu tư tưởng về tự do kinh doanh của chủ nghĩa trọng nông.
Sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách này được xuất bản.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách Lịch sử của nền văn minh, Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng Tài sản của các quốc gia có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.
Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng thương. Nhờ đó, trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người cha của nền kinh tế mới".
Những tác phẩm chính của Adam Smith
1. "Lectures on Rhetoric and Belles Lettres," 1748.
2. "The Theory of Moral Sentiments," 1759. (copies (1), (2), (3)) *
3. "Lectures on Rhetoric and Belles Lettres" (1762-1763; in 1958)
4. "Lectures on Jurisprudence," 1766.
5. "An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations," 1776. (Copy (1), (2), (3), (4), (5), French transl. - Vol. 1, Vol. 2)
6. "Account of the Life and Writings of David Hume", 1777.
7. "Thoughts on the State of the Contest with America", 1778.
8. "Essays on Philosophical Subjects", 1795 - gồm
1. "The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of Astronomy"
2. The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Physics"
3. The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Logic and Metaphysics"
9. "Of the External Senses"
10."Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the Imitative Arts"
11."Of the Affinity between certain English and Italian Verses"
12."Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review
13."Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review
14."Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several Occasions", 1748, 1758
15."Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart, 1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh
SPENCER JOHNSON - Nhà văn, tiến sĩ tâm lý, tác giả nổi tiếng
Spencer Johnson (sinh năm 1940) là một nhà văn và là tiến sỹ tâm lý học người Mỹ, ông là một trong những tác giả nổi tiếng nhất với các tác phẩm khám phá cuộc sống và cách sống được hàng triệu độc giả trên toàn thế giới yêu thích, hâm mộ. Ông đã giúp hàng triệu độc giả khám phá ra làm thế nào họ có thể tận hưởng cuộc sống tốt hơn bằng cách sử dụng thật đơn giản mà dẫn đến thực hiện và thành công tại nơi làm việc và ở nhà.
Những tác phẩm của ông được biết đến là những cuốn sách nhỏ đầy ý tưởng độc đáo đã và đang thuộc hàng bestselling do Thời báo Nữu Ước bình chọn như: “Quà tặng diệu kỳ”, “Có nên hay không - Những quyết định thay đổi cuộc sống”, “Phút nhìn lại mình“, “Phút dành cho cha”, “Phút dành cho mẹ”, “Phút dành cho thầy”, “Ai lấy miếng pho mát của tôi”…
Các tác phẩm độc đáo của ông đã mang lại cho độc giả mọi lứa tuổi những khám phá mới, thú vị và rất hữu ích về cách sống, cách hoàn thiện bản thân. Bằng những chân lý giản dị nhưng rất mới mẻ và thực tế, chúng hướng bạn đến thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.
Tiểu sử
Spencer Johnson, sinh ra tại Mitchell, Nam Dakota thuộc Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp trường trung học Notre Dame, Sherman Oaks,California, vào năm 1957.
Vào năm 1963, ông nhận được chứng chỉ cử nhân Khoa Tâm lý học của trường Đại học Nam Califonia. Sau đó, ông tiếp tục theo học ngành y tại Đại Học Y khoa Hoàng Gia ở Ireland, ở đây ông đã được nhận bằng tiến sĩ. Ông tiếp tục nghiên cứu tại bệnh viện Mayo và Đại học Y khoa Harvard.
Ông đã từng là Giám đốc Truyền thông cho Medtronic – một công ty đồng phát minh thiết bị điều hòa nhịp tim, đồng thời là nhà nghiên cứu tâm lý tại Viện Nghiên cứu Tổng hợp và là Chuyên viên tư vấn Trung tâm nghiên cứu Nhân học.
Hiện nay, ông đang là Ủy viên Hội đồng tại Trường Đại học Harvard và ông đang sống ở Hawaii và New Hampshire.
Những tác phẩm nổi tiếng
Ông đã viết và xuất bản nhiều tác phẩm Những tác phẩm của ông được độc giả trên toàn thế giới yêu thích và vận dụng thành công vào cuộc sống thực tế của mình, những tác phẩm này đã và đang trở thành kim chỉ nam tư duy sống của nhiều thế hệ.
Đó là một loạt những cuốn sách được xếp vào hàng bán chạy nhất thế giới như:
· "Yes or "No”: Có nên hay không - Những Quyết Định Thay Đổi Cuộc Sống, bí quyết giúp bạn đưa ra những quyết định làm thay đổi cuộc sống để hạnh phúc và thành công hơn (1992). Sau đó, cuốn sách này đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ bao gồm tiếng Tây Ban Nha, Hàn Quốc và Đức.
· “Who Moved My Cheese? - An Way A Mazing”: Ai lấy mất miếng Phomát của tôi (1998). Cuốn sách này đã được nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của tờ Thời báo Nữu Ước bình chọn.
· “The Precious Present”: Món quà vô giá (1984)
· “The Present”: Quà tặng diệu kỳ - Bí mật đưa bạn đến hạnh phúc và thành công.
· “One Minute for Yourself”: Phút nhìn lại mình.
· “The One Minute Father”: Phút dành cho cha.
· “The One Minute Mother”: Phút dành cho mẹ.
· “The One Minute Teacher”: Phút dành cho thầy.
· Ông là đồng tác giả với nhà văn Kenneth Blanchard trong cuốn “The One Minute Manager”: Vị giám đốc một phút.
Các cuốn sách của ông đã được dịch sang 26 ngôn ngữ trên thế giới. Những tác phẩm nổi tiếng của ông đã chiếm được sự chú ý của các phương tiện truyền thông lớn, trong đó được các cơ quan thông tấn hàng đầu như CNN, ABC, NBC, BBC, Tạp chí Thời đại,Thời báo Nữu Ước, USA Today, Today Show, Wall Street Journal, Fortune, Business Week, Reader's Digest, Associated Press vàUnited Press International. Hiệp hội Báo chí Quốc tế đánh giá những tác phẩm này như là những “liều thuốc tinh thần” cho con người trong cuộc sống hiện đại.
Các tác phẩm của Spencer Johnson được đưa vào thảo luận, giảng dạy về nhân văn, cách sống và quản trị kinh doanh ở nhiều chương trình đại học và sau đại học, đó là câu chuyện của vô tận, sự thật đơn giản đã thay đổi công việc và cuộc sống của hàng triệu độc giả trên khắp thế giới.
Thú vị, tinh tế và đầy ý nghĩa. Đó là những gì mà tác phẩm của ông để lại trong lòng người đọc. Chúng chứa đựng những câu chuyện thực tế, những bài học đi thẳng đến trái tim, làm bừng tỉnh tâm hồn, nhận thức, chỉ ra các giải pháp đơn giản, tối ưu cho những vấn đề phức tạp mà chúng ta đang phải đối mặt trong cuộc sống hiện tại. Các giá trị ấy mang tính triết lý sống sâu sắc và mãi tồn tại với thời gian.
Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, những tác phẩm của ông đã được đến với đông đảo công chúng. Công ty First New – Trí Việt đã mua được bản quyền xuất bản theo hợp đồng chuyển giao bản quyền với các đối tác như: Tập đoàn xuất bản Doublelay Broadway một chi nhánh của Random House Inc, Hoa Kỳ; William Morrow, chi nhánh của Nhà xuất bản HaperColins Publisher Inc, Hoa Kỳ và Marganet McBride Literary Agency, Hoa Kỳ theo đó Công ty này đã giành độc quyền biên tập và phát hành ấn bản Tiếng Việt. Những tác phẩm này được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh và đã có mặt trên thị trường.
Phương ngôn
· "Look at what happened in the past, learn something valuable from it, use what you learn toimprove the present." Spencer Johnson
Tạm dịch: "Hãy nhìn vào những gì đã xảy ra trong quá khứ, hãy học những giá trị từ nó, và sử dụng những gì bạn học để cải thiện hiện tại".
Tham khảo
· "Yes or "No”: Có nên hay không - Những Quyết Định Thay Đổi Cuộc Sống, bí quyết giúp bạn đưa ra những quyết định làm thay đổi cuộc sống để hạnh phúc và thành công hơn, Spencer Johnson, MD. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005
· “One Minute for Yourself”: Phút nhìn lại mình, Spencer Johnson, MD. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009
· “The Present”: Quà tặng diệu kỳ - Bí mật đưa bạn đến hạnh phúc và thành công, Spencer Johnson, MD. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009
Bạn muốn nhận quyển sách AI LẤY MIẾNG PHÓ MÁT CỦA TÔI (của tác giả Spencer Johnson) miễn phí qua Email và tin nhắn SMS. Vui lòng nhấp vào đây.
25 tháng 5 2012
BÙI VĂN NAM SƠN
BÙI VĂN NAM SƠN: KẺ LỮ HÀNH THEO CHÂN CÁC TRIẾT GIA
Khi cuốn sách triết học Hiện tượng học tinh thần của Hegel, với bản dịch
Việt ngữ (và chú giải) của Bùi Văn Nam Sơn ra mắt tại Việt Nam, thì khắp các
trang điểm sách đều trang trọng loan tin, gọi đó là “sự kiện lớn” trong đời
sống khoa học xã hội của nước nhà. Riêng giáo sư triết học Nguyễn Hữu Liêm đã
gọi đây là “Một biến cố văn học lớn của Việt Nam”.
Biến cố này còn được tạo thành một vệt với bộ ba quyển phê phán nổi
tiếng của nhà khai minh vĩ đại người Đức I.Kant: “Phê phán lý tính thuần túy”,
“Phê phán lý tính thực hành”, “Phê phán năng lực phán đoán” (4 cuốn nói trên
được xuất bản từ 2004 - 2007), “Khoa học logích của Hegel” - đang in.
Nhà thơ quái kiệt Bùi Giáng thuộc vai chú của nhà nghiên cứu triết học,
dịch giả Bùi Văn Nam Sơn. Sinh thời, Bùi Giáng rất kính nể người cháu này, một
trí thức định cư ở Đức từ năm 1968. Bùi Văn Nam Sơn đã làm gì, là người như thế
nào mà đạt được sự kính nể đó của lão thi Bùi Giáng?
Tạo ra triết học Hegel, Kant bằng tiếng Việt
Tầm
quan trọng của bản dịch Việt ngữ những tác phẩm then chốt nhất của hai nhà
triết học kinh điển thế giới Hegel và I.Kant là nó cung cấp những bộ mã chìa để
mở ra cánh cửa tri thức của nhân loại. Và chỉ khi anh tiếp thu, hòa được vào
dòng chảy tri thức đó, thì anh mới có thể tạo ra và rao truyền những giá trị
của mình.
Để
có các bản dịch chính xác, ông đã đối chiếu nhiều bản dịch tiếng Anh, Pháp,
Trung, và có công chú giải tác phẩm một cách nghiêm túc, cẩn trọng, bác học.
Công lao của ông là “tạo ra triết học Hegel, Kant bằng tiếng Việt” (GS triết
học Nguyễn Hữu Liêm), vì Việt ngữ chưa có một cộng đồng ý nghĩa và ngôn từ cho
người học triết. Ông, một học giả với khả năng ngôn ngữ, được đào tạo về triết
học khoa bảng, đã trở thành người Việt đầu tiên làm được công việc này. Bởi
những lý do đó, bản dịch Phê phán lý tính
thuần túy (dày 1.300 trang) đã được Quỹ Dịch thuật Phan Châu Trinh
và Đại học Quốc gia Hà Nội trao tặng giải thưởng Tinh hoa giáo dục quốc tế.
Xuất
thân là người học triết (ông học triết học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn từ 1964
- 1968, sang Đức du học từ năm 1968), sau đấy là người dạy triết (ông định cư
và giảng dạy triết tại Đức) và khi đã dứt nợ mưu sinh, ông trở thành người đưa
tri thức (triết học) thế giới vào Việt Nam một cách có hệ thống.
Công
việc này ông đã tiến hành độ 10 năm nay. Lý giải về động cơ của mình, ông nói:
“Đối với nước ta, công cuộc tu thư ngày càng bức thiết để nhanh chóng lấp
khoảng trống về học thuật, bù lại những quãng thời gian và cơ hội đã bị bỏ lỡ,
nhằm tiếp cận một cách toàn diện hơn, chính xác hơn các trào lưu tư tưởng và
thành tựu khoa học trên thế giới. Việc dịch sách kinh điển là con đường ngắn
nhất trong việc tiếp phát văn hóa”.
Nhìn xa, thấy rộng, tự trọng và dấn thân
Tìm
gặp Bùi Văn Nam Sơn tại nhà, một căn biệt thự yên tĩnh ở cuối quận Bình Thạnh,
TP.HCM. Ở tuổi 61, trông ông nhanh nhẹn, hồn hậu và ân cần trong lời nói, cử
chỉ; sôi nổi và nhiệt huyết khi nói về học thuật. Lời lẽ ông sáng rõ, giản dị,
mạch lạc, súc tích, cố gắng diễn đạt những vấn đề triết học một cách ít trừu
tượng nhất - một thứ ngôn ngữ đã được chưng cất qua chiều sâu trí tuệ của ông.
Ông có một khuôn mặt ấn tượng với trán cao, rộng, mắt sâu, tinh nhạy và chiếc
mũi lớn, khuôn miệng rộng, hay cười. Ông không tạo ra bất cứ sự rụt rè và mặc
cảm nào cho người đối thoại, dù sự chênh lệch về hiểu biết trong đề tài được đề
cập giữa hai người là khủng khiếp. Ông luôn biết cách cho một câu trả lời có giá
trị ở tầm khái quát lớn ngay cả với một câu hỏi tầm thường.
Trong
suốt cuộc trò chuyện, ông luôn gợi cho tôi hình ảnh của một thanh gươm mà ở đó,
vẻ bề ngoài ôn hòa nồng hậu của ông là cái vỏ kiếm hiền dịu đã bao bọc, che chở
cho một thanh gươm sáng quắc và lấp lánh là trí tuệ sắc bén của ông.
Ông
nói nhiều về nỗi trăn trở, tự vấn của mình về sự suy nhược của nền khoa học xã
hội - nhân văn nước nhà. Ông sốt ruột, mất ăn mất ngủ (theo cả nghĩa đen, mỗi
ngày ông đều chong đèn làm việc đến khuya, làm việc liên tục, suốt ngày, suốt
tháng, suốt năm, “như có cọp rượt sau lưng”) khi nhìn vào thư viện quốc gia,
thấy vốn liếng sách vở của ta không bằng một thư viện trường đại học của người.
Trong cơn bùng nổ của lý thuyết trên thế giới, ông hoảng hốt thấy sự thờ ơ và
lãnh đạm của chúng ta.
“Phải
biết giật mình, mất ăn mất ngủ khi so với các nước gần gũi như Hàn Quốc. Những
năm 70 của thế kỷ trước, triết học họ kém hơn ta, họ tiếp xúc với triết học
phương Tây muộn hơn ta. Giờ sau 40 năm nhìn vào thư viện của họ, toàn tập những
tác phẩm lớn của những tác giả lớn về KHXH đã dịch ra tiếng Hàn. Hàn Quốc phát
triển kinh khủng về học thuật, văn hóa, kinh tế. Trong 40 năm hòa bình, ta loay
hoay làm đủ thứ chuyện thì họ làm việc đó. Ta tụt hậu kinh khủng, kể cả trong
văn hóa tư tưởng - cái không tốn kém nhiều - lại tự hào vỗ ngực ta là “văn hiến
chi bang” mà sách vở trống lổng. Không biết bao giờ mới tỉnh thức về việc này!?
Người trí thức phải giật mình, tự vấn lương tâm: Ai là người chịu trách nhiệm
đây? Làm nhanh đi trước khi quá muộn”.
Ông
nói những lời tha thiết như vậy, và làm những việc thiết thực, khẩn trương. Ông
tự quàng cho mình cái trách nhiệm của một người trí thức, theo quan niệm của
ông: nhìn xa, thấy rộng, tự trọng và dấn thân. Ông cũng mong mỏi phải làm sao
tạo điều kiện cho tầng lớp trí thức có căn bản học thức và phẩm hạnh đường
hoàng.
Những
đoạn trích dẫn lời ông ở trên và đoạn phỏng vấn thực hiện dưới đây, chỉ là 1/10
những gì ông đã nói với tất cả lòng nhiệt tâm và ưu phiền (Nguyễn Trãi: “Cổ kim
thức tự đa ưu hoạn” – xưa nay kẻ biết chữ thường lắm lo phiền) mà ông đã bộc lộ
trong cuộc phỏng vấn dài 3 tiếng trong một buổi chiều Sài Gòn liên tục chuyển
mưa.
Đừng tự kỷ ta không có truyền thống triết học
Vì sao trong khi nói và viết, ông rất thường trích dẫn cụ Phan Châu
Trinh, ngay như câu vừa rồi ông dẫn của cụ “Yêu nước thì tốt, nhưng biết đạo
yêu nước còn tốt hơn”?
Tôi
thường trích dẫn cụ vì Phan Châu Trinh lớn lắm, là nhân vật bản lề
giữa xã hội cũ và mới, tượng trưng cho sự tỉnh thức của một dân tộc biết giật mình
trước sự lạc hậu và thấy rõ sự quan trọng hàng đầu của văn hóa. Vì cụ biết có
nó là có tất cả, gỡ được nó là gỡ được tất cả, mặc dù những chỗ khác có bức
thiết hơn (trong khi thiên hạ thói thường “nóng đâu xoa đó”). Luận về người
không luận về thành bại, mà luận về tầm nhìn, là cách đặt vấn đề của họ. Đặt
vấn đề quan trọng hơn giải pháp, để không vay mượn tư tưởng, nô lệ tư tưởng của
người khác. Độc lập văn hóa còn quan trọng hơn độc lập chính trị. Độc lập văn
hóa là thấy được tầm quan trọng của văn hóa, giữ gìn, bồi đắp được nó, chứ
không cho là văn hóa mình số 1!
Việt Nam
là một nước có hay không có truyền thống suy tưởng triết học?
Bản
thân người Việt có truyền thống suy tưởng hay không là vấn đề lớn
nhưng có hai ý. Một, tố chất bẩm sinh: Người Việt có thể tiếp thu, nắm vững
khoa học hiện đại, bằng chứng là ngôn ngữ tiếng Việt phát triển, không nghèo
nàn. Bao lâu có một ngôn ngữ dân tộc phát triển và cập nhật thì dân tộc đó đủ
năng lực tiếp thu và tư duy trước mọi vấn đề khoa học, không nên bi quan chỗ
này. Tôi không tin người Nhật thì có óc triết học hơn người Việt.
Hai,
thói quen: Lâu nay mình vẫn tiếp thu được những tư tưởng uyên thâm của Nho,
Khổng (nhưng nay lạc hậu, xơ cứng. Mình vừa lòng với việc tiếp thu bề ngoài,
không hiểu nguyên lý, phổ biến theo kiểu bí truyền, thầy dạy cho trò). Còn về
việc không có những nhà đại khoa học, thì mình cũng chỉ là một trong hàng trăm
nước như vậy, số nước có nhà đại khoa học chỉ đếm trên đầu ngón tay, không nên
mặc cảm về chuyện này.
Không
phải ta không có truyền thống. Truyền thống là do mình tạo ra. Do thói quen của
một đất nước có nền giáo dục - khoa học lạc hậu, coi thường khoa học nhân văn
không thiết thực, không làm ra của cải (mà không hiểu nó là nền tảng để làm ra
của cải), chứ đừng tự kỷ ta không có truyền thống.
Từ
việc xem nhẹ, coi thường khoa học xã hội lại ngộ nhận về tố chất, truyền thống
của mình là cái nhìn vô cùng thiển cận.
Ông nhắc đi nhắc lại đừng công cụ hóa triết học một cách vội vã và dại
dột. Vậy thì nhiệm vụ của triết học là gì?
Triết
học, nhiệm vụ của nó là làm việc cho sự tự do của con người. Tự do nghĩa là
mình làm chủ được - làm cho cái gì từng xa lạ trở nên quen thuộc với mình. Tự
do là chính mình trong cái khác với mình. Muốn biến thế giới này thành một thế
giới nhân đạo, quê hương để con người cư ngụ được, anh phải đủ năng lực tư duy
để nắm bắt được nó. Mà anh suy nghĩ về thế giới là suy nghĩ bằng những phạm
trù. Phạm trù anh vươn lên tới đâu, tự do của anh vươn lên tới đó. Nhưng, phải
biết rằng không có tự do học thuật thì không có tự do tư duy.
Sự suy nhược (theo ông nhận định) của khoa học xã hội và nhân văn hiện
nay tại Việt Nam nói lên điều gì và dẫn đến hậu quả gì?
Nói
đến “khoa học” là nói đến tính khách quan, tính chính xác, tính chất khảo cứu,
tính độc lập của tư tưởng, tính sáng tạo và mới mẻ trong quan niệm. Các tính
chất ấy hiện ta đều thiếu cả. Đó là do sự “bao cấp về tư tưởng” trong nhiều
năm, dẫn đến sự xem nhẹ vai trò của KHXH & NV, thậm chí ngộ nhận về chức
năng của nó khi biến nó thành công cụ nhất thời và thiển cận. Và khi “công cụ”
này tỏ ra không mấy hiệu quả, càng dễ xem nó là vô ích và nguy hiểm. Trong khi
đó, kinh nghiệm lịch sử ở các nước cho thấy: nền KHXH & NV phát triển
thường mở đường cho việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của toàn xã hội, từ đó
ảnh hưởng sâu sắc đến việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước. Nó không
chỉ là môi trường tạo ra những nhà văn hóa, nhà tư tưởng mà còn dọn miếng đất
phì nhiêu, thuận lợi cho việc phát triển các ngành khoa học, công nghệ một cách
lành mạnh, và nói chung, cho một nền văn hóa và kinh tế bền vững, nhân đạo.
Tham vọng triết học của Bùi Văn Nam Sơn
Với tốc độ vận động như hiện nay, phải mất bao nhiêu năm để VN có một
kho tàng kinh điển thế giới hoàn chỉnh? Và phải ưu tiên “nhập khẩu” những gì
trong tình hình hiện nay?
“Hoàn
chỉnh” thì khó nói, nhưng theo tôi, để có chút “vốn liếng” căn bản, có lẽ cần
ít nhất vài mươi năm, nếu làm việc cật lực và bền bỉ. Ngoài việc phải nhanh
chóng tiếp thu những thông tin mới mẻ về nhiều lĩnh vực thiết thân cho nhu cầu
trước mắt, cần ưu tiên cho việc học tập và nghiên cứu cơ bản để có sức mà đi xa.
Công việc hiện nay của ông là góp phần đưa tri thức thế giới vào Việt
Nam một cách có hệ thống. Ông nhìn thấy viễn cảnh nào cho công việc nhọc nhằn
và riêng lẻ, cô đơn này?
Công
việc đang đỡ “nhọc nhằn và cô đơn” vì ngày càng có nhiều bạn đồng hành. “Viễn
cảnh” sẽ tốt đẹp khi nhiều người cùng thấy sốt ruột và tự giác làm việc.
Giấc mơ của Plato (nhà triết học cổ đại người Hy Lạp): Vua phải là triết
gia và triết gia... phải làm vua. Cơ sở nào để Plato có giấc mơ này?
Vì
Plato cho rằng triết gia là người nắm được chân lý! Và cũng vì ông đồng nhất
hóa Chân-Thiện-Mỹ, nên triết gia không... làm vua, thì ai xứng đáng để làm?
Trong lịch sử, không phải không có trường hợp vua được xem vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa là giáo chủ, vừa là... con người đẹp nhất! Chỉ đến thời hiện đại,
khi nhận ra rằng Chân (khoa học), Thiện (đạo đức) và Mỹ (sở thích, nghệ thuật)
tuy gắn bó chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau nhưng không phải là một; mỗi cái có
phạm vi và quy luật riêng, không quy giản vào nhau được thì giấc mơ kia mới
tỉnh mộng. Công đầu trong nhận thức ấy chính là nhà khai minh vĩ đại: I. Kant.
Vậy thì vua có cần biết triết học không?
Triết
học sẽ giúp có “chính trị sáng suốt”, “chính trị lành mạnh”.
Thế còn giấc mơ của ông là gì?
Là
ai lo việc nấy! Triết gia không phải... làm vua, còn vua thì không can thiệp
vào các lĩnh vực chân, thiện, mỹ, ngoài thẩm quyền của mình.
Ông có tham vọng triết học nào không?
Vâng,
có. Xin xem lại câu trả lời trên.
Nét chính trong tính cách của ông?
Cụ
Khổng khuyên người học nên có hai tính cách: “học nhi bất yếm, hối nhân bất
quyện” (học không biết chán, dạy người chẳng mỏi). Tôi xin phấn đấu theo lời cụ
ở nửa câu trước. Tôi mong mỏi là suốt đời được làm một anh học trò già.
Triết học làm ta mất ngủ. Triết gia là những con người thao thức. Vậy
nhà triết học thì thế nào?
Còn
có thể làm gì ngoài việc tự nguyện thành kẻ lữ hành theo chân các triết gia?
ĐỌC NHIỀU
-
[KINH SÁCH – MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH | KỲ 7] “Sách là người bạn trung thành và yên tĩnh nhất, chúng là những nhà cố vẫn dễ tiếp cận và khôn ng...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Phạm Công Tắc – tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những nhà lãnh đạo hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài Chân dung Danh Nh...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Albert Einstein – Nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Ein...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Võ Quốc Thắng – Doanh nhân, Nhà sáng lập Công ty Cổ phần Đồng Tâm Võ Quốc Thắng (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1967) là đại biểu Quốc hội Việ...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CÔNG CHÚA
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PLATON
- S
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- THÁI LAN
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia