STEPHEN HAWKING - TÁC GIẢ, NHÀ VẬT LÝ VĨ ĐẠI NGƯỜI ANH
"Tôi chỉ là một đứa trẻ không bao giờ lớn. Tôi không ngừng đặt những câu hỏi như “tại sao” và “như thế nào”. Đôi lúc, tôi tìm được câu trả lời” – Stephen Hawking (1942 - 2018)
TRỊNH CÔNG SƠN - NHẠC SĨ NỔI TIẾNG NHẤT CỦA TÂN NHẠC VIỆT NAM
"Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời." - Trịnh Công Sơn (1939 - 2001)
ALFRED NOBEL - NHÀ KHOA HỌC, TÁC GIẢ CỦA GIẢI THƯỞNG NOBEL
"Mọi người hãy dùng số tiền mà tôi để lại, hàng năm trao giải thưởng cho những người đã có cống hiến lớn lao trong các lĩnh vực vì lợi ích toàn nhân loại." - Alfred Nobel (1833 - 1896)
Alexandre Gustave Eiffel (15 tháng 12 năm 1832 – 27
tháng 12 năm 1923; Phát âm tiếng Pháp: [efɛl], tiếng Anh: /ˈaɪfəl/) là một kỹ sư kết cấu, nhà thầu và một nhà
chuyên môn về các kết cấu kim loại người Pháp. Ông nổi tiếng vì đã thiết kế
Tháp Eiffel, xây dựng năm 1887–1889 cho Triển lãm Thế giới năm 1889 tại Paris,
Pháp, và cốt cho Tượng thần Tự do, ở Cảng New York, Hoa Kỳ
Tuổi trẻ
Alexandre Gustave Eiffel sinh tại Dijon, Côte-d'Or, Pháp. Cái tên Gustave Eiffel được
cha ông lấy từ đầu thế kỷ 19 theo nơi sinh của ông tại vùng Eifel
Đức (ở Marmagen), bởi người Pháp không thể đánh vần được họ của ông,
Bönickhausen. Thời tuổi trẻ, hai luồng ảnh hưởng mạnh nhất tới Gustave Eiffel đều là
những nhà hoá học thành công, hai người chú Jean-Baptiste Mollerat và Michel
Perret. Cả hai đều bỏ rất nhiều thời gian chơi với Gustave Eiffel, nhồi nhét vào đầu
ông mọi thứ từ các kiến thức hoá học tới khai mỏ tới tôn giáo và triết học. Ở
trường học, Gustave Eiffel rất thông minh, nhưng không chăm chỉ lắm. Khi theo học trung
học tại Lycée Royal, Gustave Eiffelthấy chán ngán và cảm thấy rằng các buổi học là một
sự phí phạm thời gian. Mãi tới hai năm học cuối cùng Gustave Eiffelmới tìm được niềm cảm hứng của mình, không phải trong kỹ thuật, mà là trong lịch sử và văn học.
Các thói quen học tập của Gustave Eiffel dần cải thiện và ông tốt nghiệp với bằng cấp
cả về khoa học và nhân văn. Gustave Eiffel đăng ký theo học tại một trường cao đẳng ở SainteBarbeCollege tại Paris, để chuẩn bị cho các kỳ thi đầu vào khó
khăn tại École Polytechnique. École Polytechnique từng, và vẫn là, ngôi trường
nổi tiếng về kỹ thuật ở Pháp. Cuối cùng, Alexandre Gustave Eiffelkhông được nhận vào École
Polytechnique, nhưng thay vào đó ông theo học tại École Centrale des Arts et
Manufactures ở Paris
nơi ông học hoá học, nhận được bằng cấp tương đương Thạc sĩ Khoa học năm 1855.
École Centrale là một trường tư tự do hiện nổi tiếng là một trong các trường kỹ
thuật hàng đầu châu Âu. Công việc kinh doanh than của mẹ ông mang lại nguồn thu
nhập dư dật cho gia đình và tạo điều kiện cho Gustave có được nền giáo dục đại
học. Năm 1855 cũng là năm Paris
đứng ra tổ chức Hội chợ Thế giới đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp, người chú của Gustave Eiffel đề nghị ông làm việc tại một xưởng dấm ở Dijon, Pháp. Tuy nhiên, một cuộc tranh cãi
gia đình đã không chấp nhận cơ hội đó, và Gustave Eiffel nhanh chóng thành nhân viên
mới tại một công ty thiết kế cầu đường sắt.
Charles Nepveu trao cho Gustave Eiffel công việc đầu tiên với
tư cách một trong nhiều quản lý dự án của một cầu đường sắt nằm ở Bordeaux, Pháp. Trong quá
trình xây dựng, các kỹ sư lớn tuổi ở dự án dần thôi việc, và Gustave Eiffel cuối cùng
đảm nhiệm cả dự án. Neveu theo dõi công việc của Gustave Eiffel tại hiện trường và tiếp
tục đặt Gustave Eiffel vào các công việc khác liên quan tới quản lý dự án các cầu và
kết cấu đường sắt. Trong những dự án này, Gustave Eiffel được biết các kỹ sư khác thời
ấy, và ông được ghi nhớ với công việc của mình và được mời làm việc tại các dự
án khác. Nepveu có ảnh hưởng mạnh tới Gustave Eiffel giúp ông trở nên thành công hơn
với những dự án trong tương lai.
Sự nghiệp
Eiffel et Cie., công ty tư vấn và xây dựng của
Eiffel, với sự hỗ trợ của kỹ sư người Bỉ Téophile Seyrig, đã tham gia vào gói
thầu quốc tế xây dựng một cây cầu đường sắt dài 160m qua sông Douro, giữa
Oporto và Vila Nova de Gaia, Bồ Đào Nha. Đề xuất của ông giành chiến thắng bởi
nó đẹp, có cấu trúc trong sáng, giá thành thấp nhất, và nó tích hợp việc sử
dụng phương pháp các lực, khi ấy là một kỹ thuật mới trong thiết kế cấu trúc do
Maxwell phát triển năm 1864. Ponte Maria Pia là một vòng cung khớp đôi đỡ một
đường sắt đơn qua các cột tăng cường cho toàn bộ cây cầu. Việc xây dựng được
tiến hành nhanh chóng và cây cầu hoàn thành trong chưa tới hai năm (5 tháng 1
năm 1876 tới mùng 4 tháng 11 năm 1877). Nó được Vua D. Luís và Nữ hoàng D.
Maria Pia khai trương, và cây cầu được đặt theo tên nữ hoàng. Cây cầu được sử
dụng cho tới tận năm 1991 (114 năm), khi nó được thay thế bởi Cầu S. John, được
thiết kế bởi kỹ sư Edgar Cardoso. Eiffel đã xây dựng một số cầu đường sắt thép
đúc tại Massif Central, như các cầu cạn tại
Rouzat và Bouble. Chúng vẫn được dùng cho các chuyến tàu địa phương và được xây
dựng cuối những năm 1860.
Gustave Eiffel cũng thiết kế La Ruche tại Paris, Pháp. Cây cầu này,
giống như Tháp Eiffel, trở thành một địa điểm thắng cảnh của thành phố. Đây là
một kết cấu tròn ba tầng trông giống như một tổ ong lớn và được tạo ra như một
kết cấu tạm thời sử dụng như một nhà vòm rượu tại Đại Triển lãm năm 1900. La
Ruche trong tiếng Pháp có nghĩa "tổ ong". Ông cũng xây dựng cầu cạn
Garabit, một cầu đường sắt gần Ruynes en Margeride tại Cantal département. Ở
Châu Mỹ, Eiffel thiết kế ga đường sắt trung tâm tại Santiago de Chile (1897) và
Mona Island Light nằm gần Puerto Rico. Cây đèn
biển được xây dựng khoảng năm 1900 bởi Hoa Kỳ nước đã chiếm được hòn đảo sau
khi chấm dứt Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Nó ngừng hoạt động năm 1976.
Năm 1887, Gustave Eiffel tham gia vào nỗ lực của Pháp xây
dựng một Kênh Panama.
Công ty Kênh Panama Pháp, dưới sự lãnh đạo của Ferdinand de Lesseps, đã tìm
cách xây dựng một con kênh ngang mực nước biển, nhưng cuối cùng nhận ra rằng
điều này là không thể thực hiện. Một con kênh nâng, với các cống đã được lựa
chọn làm thiết kế mới, và Eiffel được giao việc thiết kế và xây dựng các cống.
Tuy nhiên, toàn bộ dự án kênh gặp vấn đề quản lý kém nghiêm trọng, và cuối cùng
sụp đổ với thiệt hại to lớn. Danh tiếng của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng nghiêm trọng
khi ông bị dính líu vào các scandal tài chính liên quan tới de Lesseps và các
doanh nghiệp hỗ trợ dự án. Chính Gustave Eiffel không liên quan tới các vấn đề tài
chính, và sau này phán quyết có tội với ông đã được đảo ngược. Tuy nhiên,
công việc của ông không bao giờ được thực hiện, bởi nỗ lực xây dựng kênh sau
này của người Mỹ sử dụng các thiết kế cống mới (xem Lịch sử Kênh Panama).
Sau khi nghỉ hưu ông nghiên cứu và phát triển những ý
tưởng mới thông qua việc sử dụng thực tế Tháp Eiffel. Tháp cho phép ông thực
hiện những tiến bộ trong khí động học, khí tượng học, và truyền phát radio. Ông
đã xây dựng một đường hầm gió tại đáy tháp để nghiên cứu khí động học, đặt các
thiết bị khí tượng ở nhiều vị trí trên tháp, và đề nghị quân đội lắp đặt thiết
bị radio trên đỉnh tháp. Trong những năm tiếp theo tháp tiếp tục được sử dụng
cho truyền phát radio và cuối cùng được dùng để phát sóng vô tuyến.
Gustave Eiffel mất này 27 tháng 12 năm 1923 trong ngôi nhà
của ông tại Rue Rabelais ở Paris, Pháp. Ông được chôn cất tại Cimetière de
Levallois-Perret.
Gustave Eiffel cũng đã từng tới nhiều nơi như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Philippines, vân vân, thiết kế các toà nhà và các cấu trúc
khác trong những chuyến thăm của mình. Ông trở nên rất nổi tiếng trên thế giới
về ngọn tháp chúng ta đều biết ngày nay với cái tên Tháp Eiffel (đã đề cập ở
trên).
Dấu ấn
Bức tranh năm 1886 của Edward Moran, The Statue of
Liberty Enlightening the World (Tượng Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới), thể
hiện lễ khai trương Tượng thần Tự do.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp đóng một vai trò quan
trọng trong cuộc đời của Gustave Eiffel. Mọi người đi vòng quanh thế giới, các
kỹ thuật và vật liệu mới xuất hiện, và các quốc gia tiến lên công nghiệp hoá.
Đa số các công việc của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng bởi một trong những điều kiện do
cuộc Cách mạng Công nghiệp tạo ra.
Điều kiện ảnh hưởng mạnh nhất tới công việc của Gustave Eiffel là giao thông. Mọi người trên khắp thế giới có nhu cầu đi lại an toàn
qua các con sông và cần tới những cây cầu. Việc xây dựng những cây cầu đó đã
khiến Eiffel có được danh tiếng là một kỹ sư, cho phép ông theo đuổi những dự
án lớn hơn và khó khăn hơn sau này. Những cây cầu ông thiết kế được xây dựng
trên khắp thế giới. Những cây cầu cho phép việc đi lại và thương mại diễn ra dễ
dàng và nhanh chóng hơn tại những địa điểm chúng được xây dựng. Nhiều cây cầu
của Eiffel không đòi hỏi phải có thợ tay nghề cao để lắp ráp, khiến chúng trở
thành một lựa chọn rất kinh tế.
Tháp Eiffel có một dấu ấn lớn tại Pháp. Tháp là điểm
nhấn của Triển lãm Thế giới (1889) và thu hút hàng triệu người tới Paris. Gần hai triệu
người tới thăm Tháp Eiffel chỉ riêng trong năm 1889. Tháp nhanh chóng trở thành
một điểm thu hút khách du lịch và mang lại những khoản tiền lớn cho nền kinh tế
Pháp. Ban đầu bị coi là một thứ gây chướng mắt (thực tế nó được thiết kế để có
thể được tháo dỡ dễ dàng sau cuộc Triển lãm), tháp nhanh chóng trở thành một
biểu tượng quốc gia của Pháp và mang lại cảm giác tự hào cho người dân sống tại
đó. Năm 1910 Gustave Eiffel đã có một kết luận phi thường trong xác định độ
kháng gió của một đĩa phẳng; Gustave đã dùng Tháp Eiffel làm nơi thí nghiệm.
Tượng thần Tự do là một món quà của Pháp cho Mỹ.
Thiết kế của Eiffel cho cấu trúc bên trong tượng cho phép nó có thể được thực
hiện trong thực tế. Tượng thể hiện tình hữu nghị và sự tôn trọng giữa Pháp và
Mỹ. Tượng thần Tự do nhanh chóng trở thành một biểu tượng quốc gia về tự do tại
Hoa Kỳ và cũng khiến những công dân nước này tự hào. Bức tượng trở thành một
điểm thu hút du khách nổi tiếng và khiến nhiều người tới New York, làm phát triển mạnh nền kinh tế.
Nhiều người Mỹ sống tại Pháp rất hài lòng về món quà dành cho nước mình và để
đáp lễ, đã chế tạo một bức tượng đồng tỷ lệ ¼ ở phía cuối dòng Île aux Cygnes,
1.4 km phía tây nam Tháp Eiffel.
Với tất cả những cơ hội do cuộc Cách mạng Công nghiệp
mang lại, nó cũng đưa tới nhiều thách thức. Bởi Eiffel có cơ hội làm việc tại
nhiều dự án ở những địa điểm khác nhau, các kỹ sư khác cũng có cơ hội tương tự.
Tính cạnh tranh cho các dự án rất cao và danh tiếng của kỹ sư đóng một vai trò
quan trọng trong việc thắng thầu dự án. Quả thực một thách thức khác trong sự
nghiệp của Eiffel là đưa ra các vật liệu xây dựng mới. Bởi các vật liệu xây
dựng mới chưa từng được chứng minh trong các dự án, các kỹ sư thường phải đối
mặt với nguy cơ khi sử dụng chúng. Nhiều cây cầu Eiffel đã xây dựng được làm
bằng thép là vật liệu mà ông đã giúp trở thành tiên phong. Với sự phát triển
của Thế gới Công nghiệp thời kỳ ấy. Một số phát triển của ông gồm: thiết kế một
hệ thống nén thuỷ lực cho phép các công nhân đặt móng cầu sâu hơn dưới nước,
tạo ra các dàn vì kèo và kết cấu khung khoẻ nhưng có trọng lượng nhẹ "kiểu
thanh dầm" có khả năng chống gió mạnh, sử dụng thép rèn cho xây dựng cầu
bởi độ dẻo của nó có thể chống lại gió mạnh, uốn cong các đầu cột để tạo ra các
đáy ổn định hơn, và phát triển "lao" là một cách dễ dàng hơn để di
chuyển các thành phần kết cấu tới vị trí. Sự khéo léo và tài năng nổi bật của Gustave Eiffel cho phép ông thiết kế và xây dựng một số cấu trúc nổi tiếng nhất thế giới.
Heinrich
Hermann Robert Koch (11 tháng 12 năm 1843 – 27 tháng 5 năm 1910) là một bác sĩ
và nhà sinh học người Đức. Ông nổi tiếng như một người đã tìm ra trực khuẩn bệnh
than (1877), trực khuẩn lao (1882) và vi khuẩn bệnh tả (1883) đồng thời là người
đã phát biểu nguyên tắc Koch. Ông đã được trao giải Nobel dành cho Sinh lý và Y
học cho các công trình về bệnh lao vào năm 1905. Ông cũng được coi là một trong
số những người đặt nền móng cho vi khuẩn học.
Tiểu sử
Robert
Koch sinh vào ngày 11 tháng 12 năm 1843 tại Clausthal, trên núi Upper Harz, Đức.
Là con trai của một người kĩ sư mỏ, ông làm bố mẹ phải kinh ngạc khi nói với họ
rằng ông đã tự học đọc bằng một tờ báo. Đó là dấu ấn đầu tiên về sự thông minh
và tính kiên trì về mặt phương pháp – những đức tính đã theo ông trong suốt cuộc
đời sau này. Ông học ở một trường cấp 3 địa phương (trường Gymnasium). Ở đó ông
đã thể hiện mối quan tâm tới sinh học, và cũng như bố, ham muốn mạnh mẽ đi du lịch
khám phá.
Năm
1862, Koch tới Đại học Göttingen để học y khoa. Tại đây, Koch bị ảnh hưởng bởi
tư tưởng của giáo sư môn giải phẫu học là Friedrich Gustav Jakob Henle về bệnh
truyền nhiễm là do những loài sinh vật sống kí sinh (luận điểm này đã được xuất
bản vào năm 1840). Sau khi lấy bằng bác sĩ vào năm 1866, Koch tới Berlin sáu
tháng để học hoá học dưới sự dẫn dắt của Virchow. Cùng năm, Koch cưới Emmy
Fraats. Bà đã sinh cho ông một người con gái duy nhất là Gertrud (sinh năm
1865), người mà sau này trở thành vợ của tiến sĩ E. Pfuhl. Năm 1867, ông bắt đầu
ổn định cuộc sống sau thời gian thực tập, đầu tiên ở Langenhagen và không lâu
sau đó, năm 1869, ở Rackwitz, tỉnh Posen. Ở đây ông đã vượt qua kì thi nhân
viên ngành y của tỉnh. Năm 1870, ông tham gia tình nguyện phục vụ trong cuộc
Chiến tranh Pháp – Phổ và từ năm 1872 tới 1880 là nhân viên ngành y của tỉnh Wollstein.
Cũng chính ở đây, ông đã thực hiện những nghiên cứu bước ngoặt, những nghiên cứu
đã đưa ông lên vị trí cao trong giới khoa học.
Bệnh
than vào thời đó đang xuất hiện trong các trang trại chăn nuôi ở tỉnh Wollstein
và Koch, mặc dù không có công cụ nghiên cứu khoa học nào và còn bị tách biệt với
thư viện và giới khoa học, đã lao vào nghiên cứu bệnh này bất chấp sức ép từ
công việc bận rộn của ông. Phòng thí nghiệm của ông là căn nhà 4 phòng và cũng
chính là nhà ông, còn dụng cụ nghiên cứu của ông, ngoài cái kính hiển vi vợ ông
tặng, đều do ông tự trang bị. Trước đó thì trực khuẩn than đã được tìm ra bởi
Pollender, Rayer và Davaine; và Koch đặt ra mục tiêu là chứng minh loài trực
khuẩn này chính là tác nhân gây bệnh than.
Ông
cấy vào chuột, bằng miếng gỗ tự chế, trực khuẩn than lấy từ lá lách của những động
vật trong nông trại đã bị chết bởi bệnh than, và thấy rằng những con chuột này
bị chết bởi trực khuẩn. Trong khi cùng lúc những con chuột được cấy bằng máu từ
lách của những con vật nuôi khoẻ mạnh thì không bị mắc bệnh than. Điều này củng
cố cho những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng bệnh này có thể lây qua đường
máu từ những con vật đã bị bệnh.
Nhưng
điều đó chưa thoả mãn Koch. Ông còn muốn biết những con trực khuẩn than chưa
bao giờ phát triển trong động vật thì có khả năng gây bệnh hay không. Để giả
quyết vấn đề này, ông đã triết xuất pure culture của trực khuẩn bằng cách nuôi
cấy chúng trong dịch lấy từ mắt bò. Bằng cách nghiên cứu, vẽ và chụp hình lại
những môi trường nuôi cấy này, Koch đã ghi lại sự nhân lên của trực khuẩn và nhận
thấy rằng điều kiện nuôi cấy không thích hợp với chúng, chúng đã tạo ra bào tử
(spore) bên trong chúng để chống lại điều kiện bất lợi đặc biệt là thiếu ôxy,
và khi điều kiện thuận lợi trở lại, bào tử có thể trở lại thành trực khuẩn.
Koch nuôi trực khuẩn qua vài thế hệ trong pure culture và chỉ ra rằng cả khi
chúng không hề lớn lên trong động vật thì chúng vẫn có khả năng gây bệnh than.
Kết
quả của công việc lao khổ này đã được Koch trình bày cho Ferdinand Cohn, giáo
sư thực vật học ở Đại học Breslau, người đã tổ chức một cuộc họp cùng với những
đồng nghiệp của mình cùng làm chứng cho sự trình bày của Koch trong số đó có
giáo sư Cohnheim, giáo sư về giải phẫu bệnh học. Cả Cohn và Cohnheim đều bị ấn
tượng bởi công trình của Koch và khi Cohn, vào năm 1876, xuất bản công trình của
Koch trong một tờ báo của ngành thực vật học mà ông làm biên tập viên thì Koch
đã lập tức trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục làm việc ở Wollstein 4
năm sau đó và trong thời gian đó đã tiến bộ hơn nhiều trong kĩ năng cố định,
nhuộm và chụp hình vi khuẩn đồng thời nghiên cứu thêm một số công trình quan trọng
nữa về bệnh gây ra bởi vi khuẩn trong các vết thương, và xuất bản công trình
vào năm 1878. Trong những công trình này ông đã nêu lên, cũng như những gì ông
đã làm với bệnh than, bản chất khoa học và thực nghiệm cho cách kiểm soát những
bệnh truyền nhiễm đó.
Tuy
nhiên Koch vẫn còn thiếu điều kiện cho công việc của ông và phải tới năm 1880,
khi ông được bổ nhiệm làm thành viên của Reichs-Gesundheitsamt (Cục Y tế Hoàng
gia) ở Berlin, thì ông mới được cung cấp đầu tiên là một phòng hẹp, thiếu thốn
nhưng sau đó là một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn, trong đó ông đã làm việc với
các phụ tá là Loeffler, Gaffky và những người khác. Ở đây, Koch tiếp tục hoàn
thiện phương pháp nghiên cứu vi khuẩn mà ông đã dùng ở Wollstein. Ông phát minh
ra phương pháp mới Reinkulturen – cấy pure culture của vi khuẩn vào môi trường
nuôi cấy rắn như khoai tây, hay thạch đựng trong một loại đĩa đặc biệt phát
minh bởi đồng nghiệp của ông là Julius Richard Petri, mà tới nay nó vẫn được sử
dụng phổ biến. Ông cũng phát minh ra một phương pháp nhuộm vi khuẩn mới làm
chúng dễ nhìn hơn và giúp xác minh chúng. Kết quả của những công trình này là sự
mở đầu cho phương pháp nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh trong đó vi khuẩn có thể dễ
dàng tách ra trong pure culture, không nằm trong cơ thể sinh vật và vì vậy
chúng có thể được xác định.
Koch
cũng đặt ra tiêu chuẩn, được biết đến như nguyên tắc Koch (Koch's postulate). Để
chấp nhận một vi khuẩn nào đó là nguyên nhân gây ra một bệnh nhất định hay
không thì tất cả tiêu chuẩn của "nguyên tắc Koch" cần được thoả mãn.
Hai
năm sau khi tới Berlin, Koch phát hiện ra trực khuẩn lao và phương pháp nuôi cấy
nó trên pure culture. Năm 1882, ông xuất bản công trình kinh điển của ông về trực
khuẩn. Ông vẫn tiếp tục bận rộn nghiên cứu cho tới khi ông được cử tới Ai Cập
vào năm 1883 với vai trò Chủ tịch Uỷ ban về bệnh tả của Đức, để điều tra về dịch
tả đang bùng phát ở đó. Ở đây ông đã phát hiện ra vi khuẩn vibrio là nguyên
nhân gây bệnh tả và mang được pure culture của vi khuẩn này về Đức. Ông cũng
nghiên cứu cả vi khuẩn tả ở Ấn Độ.
Trên
cơ sở những kiến thức của ông về đặc điểm sinh học và sự phân bố của vi khuẩn tả,
Koch đã hệ thống hoá nguyên tắc để kiểm soát dịch tả và điều đó đã được chấp
thuận bởi Quyền tối cao ở Dresden vào năm 1893 và nó đã trở thành nền móng cho
việc kiểm soát dịch tả ngày nay. Công trình của ông về bệnh tả đã được nhận giải
thưởng 100 ngàn mark Đức đồng thời cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc có kế
hoạch bảo vệ nguồn nước sinh hoạt.
Năm
1885, Koch được phong Giáo sư về vệ sinh học của Đại học Berlin và Giám đốc của
Viện vệ sinh mới được thành lập lúc đó tại trường này. Năm 1890 ông được phong
thượng tướng và người có đặc quyền (Freeman) của thành phố Berlin. Năm 1891 ông
trở thành Giáo sư Danh dự của khoa Y ở Berlin và Giám đốc Viện các bệnh truyền
nhiễm, nơi ông đã may mắn gặp được những đồng nghiệp như Ehrlich, von Behring
và Kitasato, cũng là những nhà phát minh nổi tiếng. Năm 1893, Koch cưới người vợ
thứ hai là Hedwig Freiberg.
Trong
thời gian này, Koch quay lại với những nghiên cứu về bệnh lao. Ông cố gắng hãm
lại quá trình phát triển bệnh bằng chất mà ông gọi là tuberculin, được làm từ
môi trường nuôi cấy trực khuẩn lao. Ông chuẩn bị các mẫu tuberculin, mới và cũ,
và sự thông báo về mẫu tuberculin cũ đã gây rất nhiều tranh cãi. Khả năng chữa
trị của chất này theo như những gì Koch tuyên bố là một sự thổi phồng, và bởi
vì hi vọng từ nó không được thoả mãn, dư luận quay ra chống lại nó và chống lại
Koch. Chất tuberculin mới được Koch công bố vào năm 1896 và khả năng chữa trị của
nó cũng làm thất vọng mọi người; nhưng nó đã dẫn tới sự phát hiện của một chất
có giá trị về mặt chẩn đoán.
Trong
khi công trình về tuberculin vẫn tiếp tục, đồng nghiệp của ông ở Viện về các bệnh
truyền nhiễm là von Behring, Ehrlich và Kitasato nghiên cứu và xuất bản công
trình mang tính bước ngoặt của họ về sự miễn dịch của bệnh bạch hầu.
Năm
1896, Koch tới Nam Phi để nghiên cứu nguyên nhân của bệnh dịch virut Rinde
(rinderpest) và mặc dù ông không tìm được nguyên nhân, ông cũng đã thành công
trong việc hạn chế sự bùng phát của bệnh dịch bằng cách tiêm cho những con gia
súc khoẻ mạnh mật lấy từ túi mật của những con đã bị bệnh. Rồi sau đó là các
nghiên cứu ở Ấn Độ và châu Phi về sốt rét, sốt rét tiểu đen (blackwater fever),
bệnh xura (surra) ở gia súc, ngựa và bệnh dịch hạch và xuất bản những quan sát
của ông về các bệnh này vào năm 1898. Không lâu sau khi quay lại Đức, ông lại
được cử tới Ý và vùng nhiệt đới nơi ông xác nhận công trình của Ronald Ross về
sốt rét và làm được một số công việc có ích trong nghiên cứu về nguyên nhân của
các dạng khác nhau của sốt rét và việc kiểm soát nó bằng thuốc kí ninh.
Trong
những năm cuối của cuộc đời, Koch đi tới kết luận là trực khuẩn gây bệnh lao ở
người và bò là khác nhau và tuyên bố của ông về điều này tại Hội nghị Y học quốc
tế về Lao ở Luân Đôn năm 1901 đã gây ra nhiều tranh cãi, nhưng bây giờ thì quan
điểm đấy của ông đã được công nhận là đúng. Công trình nghiên cứu của ông về bệnh
sốt Rickettsia đã dẫn đến ý tưởng mới, rằng căn bệnh này được truyền dễ dàng từ
người sang người hơn là từ nước uống, và vì thế dẫn đến phương pháp kiểm soát bệnh
mới.
Tháng
12 năm 1904, Koch được cử tới vùng Đông Phi của người Đức để nghiên cứu bệnh sốt
ở Bờ Biển Đông trên gia súc và ông đã tiến hành những quan sát quan trọng,
không chỉ với dịch bệnh này mà còn với những loài gây bệnh Babesia và
Trypanosome và bệnh xoắn khuẩn spirochaet có nguồn gốc lây truyền qua ve, bọ;
và tiếp tục công việc của ông trên những sinh vật này khi ông trở về nhà.
Koch
là người đã nhận rất nhiều giải thưởng và huân chương, học vị tiến sĩ danh dự của
Đại học Heidelberg và Bologna, công dân danh dự của thành phố Berlin, Wollstein
và quê hương ông Clausthal, thành viên danh dự của giới khoa học hàn lâm ở
Berlin, Viên, Posen, Perugia, Napoli và New York. Ông cũng được huân chương
danh dự Đức (German Order of the Crown), Bắc đẩu bội tinh của German Order of
the Red Eagle (lần đầu tiên giải thưởng cao quí này được trao cho một người
trong ngành Y) và huân chương của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Rất lâu sau khi ông mất,
ông còn được ghi công bằng tượng đài kỉ niệm và nhiều hình thức khác ở một số
nước.
Năm
1905, ông nhận được giải thưởng Nobel dành cho Sinh lý và Y học. Năm 1906, ông
quay lại Trung Phi để nghiên cứu về việc kiểm soát bệnh trùng mũi khoan
(trypanosomiasis), và ở đó ông đã báo cáo rằng atoxyl có tác dụng chống lại bệnh
này giống như thuốc kí ninh đối với sốt rét. Sau đó Koch tiếp tục công việc thực
nghiệm về vi khuẩn học và huyết thanh học.
Bác
sĩ Koch mất ngày 27 tháng 5 năm 1910 tại Baden-Baden.
Jawaharlal
Nehru (tiếng Hindi: जवाहरलालनेहरू;
IPA: [dʒəvaːhərlaːl nehruː]; 14 tháng 11 năm 1889 tại Allahabad – 27 tháng 5
năm 1964 tại New Delhi) là một nhà chính trị người Ấn và từ 1947 cho đến 1964
là thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. Thường được gọi Panditji (Nhà học giả), Nehru
cũng là nhà văn, nhà học giả, là sử gia không chuyên, và là tộc trưởng của gia
tộc Nehru-Gandhi, họ chính trị nổi tiếng nhất ở Ấn Độ. Con gái, Indira Gandhi
cũng là một thủ tướng Ấn Độ.
Bùi
Huy Bích (chữ Hán: 裴輝璧; 1744 - 1818), tự là Hy Thương, hiệu là
Tồn Am và Tồn Ông, là một danh nhân, danh sĩ người Hà Nội, từng giữ chức Tham tụng
(tương đương chức thủ tướng) trong triều đình dưới thời vua Lê – chúa Trịnh.
Tuổi
thơ
Ông
sinh ngày 28 tháng Tám năm Giáp Tý (tức 3 tháng 10 năm 1744), quê làng Định
Công, Hà Nội. Ông là cháu 5 đời của Tiên Quận công Bùi Bỉnh Uyên, cháu 7 đời của
Quảng Quận công Bùi Xương Trạch. Cha ông là Bùi Dụng Tân, hiệu Trúc Viên cư sĩ,
dạy học ở nhà.
Bùi
Huy Bích có 1 chị và 1 em trai. Năm ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất, cha ông mang 3
chị em lên Hải Dương, ở làng An Lâu, huyện Thanh Miện. Trúc Viên dạy học tại
đó.
Thuở
nhỏ Tồn Am thể chất kém, thường đau ốm luôn, bề ngoài có vẻ "lỗ độn"
nhưng trong lại có khiếu thông minh. Không những Bùi Huy Bích chóng học thuộc
sách mà ngay cả với cuộc sống cũng tỏ ra am hiểu.
Khoa cử
Thuở
nhỏ ông học ở nhà, 17 tuổi theo học Nguyễn Bá Trữ. Năm 19 tuổi (1762), đi thi đỗ
ngay hương cống nhưng trượt thi hội vào năm sau (1763). Ông về học tiếp bảng
nhãn Lê Quý Đôn mở tại kinh thành, nhưng bất mãn trước cảnh xã hội nên không
theo tiếp con đường tiến sỹ.
Để
chiều lòng cha, mãi năm ông 25 tuổi (1770) ông đi thi và đỗ thi hội rồi đỗ thi
đình, đỗ Hoàng giáp.
Làm quan
Sau
khi đỗ, ông được bổ dụng làm Hàn lâm viện hiệu lý, lên chức Thị Chế (năm 1771),
rồi được thụ chức Thiêm sai phủ liêu Tri hộ phiên, kiêm chức Đông các Hiệu thư.
Năm
1777, ông vào lĩnh chức Đốc đồng Nghệ An rồi lại phụng sai vào Thuận Hóa tuyên
dụ. Trong thời gian này ông đã có công bình loạn giặc Mường Thai ở miền tây Nghệ
An.
Sau
công trạng đó, năm 1780 ông được thăng lên Hiệp trấn Nghệ An kiêm thụ lĩnh chức
tham chính. Đến năm Tân Sửu (1781), ông được chúa Trịnh Sâm triệu về triều,
trao cho chức Nhập thị Bồi tụng, chức đứng hàng thứ 2 trong phủ chúa sau chức Bồi
tụng, nhưng ông đệ khải văn xin từ chức, lấy cớ là ốm yếu, dù khi đó mới 38 tuổi
và có quan hệ họ hàng với Trịnh Sâm, nhưng bản thân ông không muốn gần gũi với
Trịnh Sâm.
Ông
là người đã đứng ra can gián Trịnh Sâm khi chúa định bỏ con trưởng Trịnh Tông để
lập con nhỏ Trịnh Cán của Tuyên phi Đặng Thị Huệ được sủng ái, nhưng không
thành. Chính vì Trịnh Sâm lập con nhỏ nên đã xảy ra loạn trong triều sau khi
chúa qua đời.
Trịnh
Tông lật đổ Trịnh Cán lên ngôi, cách chức Tham tụng của Phan Lê Phiên (vì Phiên
cùng phe với mẹ con Trịnh Cán) và mời Bùi Huy Bích ra làm Hành Tham tụng, hy vọng
ông có thể cứu vãn tình thế do loạn kiêu binh gây ra. Sau xảy ra nhiều chuyện,
lại do ngờ vực, ông từ quan về dưỡng bệnh tại phường Bích Câu, Hà Nội, gần đền
Tú Uyên.
Năm
1786, quân Tây Sơn lấy danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh" kéo ra bắc, Trịnh
Tông điều ông ra mặt trận làm chức đốc chiến. Ông định đến đò Thuý Ái để phối hợp
với Hoàng Phùng Cơ chỉ huy thuỷ quân, nhưng chưa đến nơi thì quân Phùng Cơ đã
tan vỡ, quân Tây Sơn thần tốc tiến vào Thăng Long.
Tây
Sơn diệt Trịnh không lâu thì Lê Hiển Tông mất, cháu là Lê Chiêu Thống lên thay,
Nguyễn Huệ rút quân về nam. Chiêu Thống mời Bùi Huy Bích ra giúp nhưng ông xin
từ về quê nhà.
Khi
Nguyễn Huệ lên ngôi vua và đánh tan quân Thanh (1789) có mời các danh thần nhà
Hậu Lê ra giúp nước nhưng ông không hợp tác. Đến đời Nguyễn Ánh, ông được trọng
đãi nhưng ông vẫn xin được sống an nhàn ở quê cho đến khi qua đời ngày 25 tháng
5 năm 1818, thọ 75 tuổi.
Tưởng nhớ
Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, tên của Bùi Huy Bích được chính quyền Hà Nội đặt
cho phố Sinh Từ (thời Pháp thuộc). Đến thời tạm chiếm, phố Bùi Huy Bích trở lại
tên cũ là phố Sinh Từ, và đến năm 1964, phố Sinh từ lại được đổi thành phố Nguyễn
Khuyến.
Năm
2012 Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đặt tên đường Bùi Huy Bích cho con đường
từ đường vành đai 3 rẽ vào khu tái định cư X1 Pháp Vân thuộc phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai. Trung tâm hành chính quận Hoàng Mai nằm trên con đường này.
Thơ văn
Bùi
Huy Bích viết nhiều, trong đó thơ của ông để lại ba bộ, tổng cộng 681 bài thơ.
Bích
Câu thi tập, gồm 2 tập là tiền tập và hạ tập.
Nghệ
An thi tập gồm 2 tập
Thoái
hiên thi tập gồm 3 tập.
Về văn có:
Tồn
Am văn cảo
Lữ
trung tạp thuyết
Các
tập văn thơ ông sưu tập và hợp tuyển: ghi chép từ thời Lý Trần đến thời Lê Hiển
Tông:
Hoàng
Việt thi tuyển: gồm 562 bài của 167 tác giả.
Thơ
văn của ông phần nhiều tự sự về nhân tình thế thái, tự phê phán bản thân bất lực
không làm được gì nhiều giúp dân giúp nước; đồng thời công kích sư sa đoạ của kể
sĩ và quan lại đương thời và phê phán quan điểm lệch lạc của các nhà Nho. Bùi
Huy Bích không đồng nhất quan điểm cho rằng từ thời Sĩ Nhiếp Việt Nam mới có chữ
viết mà ông cho rằng Việt Nam đã có chữ viết trước đó nhiều.
Giai thoại
Khi
Bùi Huy Bích còn nhỏ, ở làng có đám ma. Huy Bích đứng gần người đề chủ[7]. Khi
làm lễ, người đề chủ chuẩn bị viết thì mới phát hiện nghiên mực khô khốc. Liếc
sang thấy cậu bé Bích đứng gần, ông đề chủ hất hàm ra hiệu. Thấy cạnh nghiên có
chén đầy nước, Bùi Huy Bích cầm lấy chén nhưng không đổ cả vào nghiên mà lại nhặt
một thoi vàng hồ, chọc thủng một mặt rồi dùng thoi vàng lấy từng ít nước đổ vào
nghiên.
Thi
lễ xong, ông đề chủ rất khen ngợi cậu bé Bích và mời ngồi cùng vào chiếu rượu
dành riêng cho ông. Ông giảng giải:
Chén
nước đầy mà nghiên mực thì nông. Kẻ xốc nổi sẽ cầm cả chén mà rót và thế thì nước
sẽ tung toé ra, mất trang nghiêm. Kẻ chậm chạp thì chạy đi lấy thìa và như thế
thì nghi lễ bị dở dang. Thoi vàng không phải là thứ múc nước, vậy mà cậu bé biết
biến báo thành ra được việc.
Lê
Anh Xuân (1940-1968) là một nhà thơ Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng
Giải thưởng Nhà nước và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những
đóng góp của mình.
Thân thế
Ông
tên thật là Ca Lê Hiến, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1940 tại thị xã Bến Tre, nguyên
quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày (nay thuộc huyện Mỏ Cày Bắc), tỉnh Bến
Tre. Cha ông là giáo sư Ca Văn Thỉnh, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học. Các
thành viên trong gia đình ông cũng đều là những nhà giáo, nghệ sĩ được biết tới.
Anh trai ông là nhạc sĩ Ca Lê Thuần, em gái là nữ đạo diễn Ca Lê Hồng - nguyên
hiệu trưởng trường Nghệ thuật Sân khấu II Thành phố Hồ Chí Minh, em trai là họa
sĩ Ca Lê Thắng.
Sự
nghiệp
Ông
sớm tiếp xúc với văn thơ từ nhỏ, năm 12 tuổi bắt đầu vừa học văn hóa, vừa học
việc ở nhà in Trịnh Đình Trọng thuộc Sở Giáo dục Nam Bộ trong chiến khu.
Năm
1954, ông theo gia đình tập kết ra Bắc, học ở các trường học sinh miền Nam, Trường
phổ thông trung học Nguyễn Trãi (Hà Nội), rồi vào học khoa Sử, Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Bài thơ đầu tiên ra mắt bạn đọc, Nhớ mưa quê hương với dòng cảm xúc
thương nhớ da diết miền Nam, đã chiếm được cảm tình của độc giả và đoạt giải
nhì trong cuộc thi thơ năm 1960 của tạp chí Văn nghệ. Tốt nghiệp đại học, Lê
Anh Xuân được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở khoa Sử và được cử đi nghiên cứu
sinh ở nước ngoài nhưng ông từ chối để trở về quê hương chiến đấu.
Cuối
năm 1964, ông vượt Trường Sơn vào miền Nam, làm việc ở Tiểu ban Giáo dục thuộc
Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam và sau đó là Hội Văn nghệ Giải phóng miền
Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu sử dụng bút danh Lê Anh Xuân[1]. Năm
1966, ông tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài làm thơ, ông còn viết cả văn
xuôi.
Lê
Anh Xuân hy sinh ngày 21 tháng 5 năm 1968 tại ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện
Cần Đước, tỉnh Long An trong một trận càn của quân đội Mỹ.
Vinh danh
Tên
ông được đặt cho một con đường tại Quận 1.
Năm
2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Năm
2011, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân
Tác phẩm
Tiếng
gà gáy (thơ, 1965)
Không
có đâu như ở miền Nam (thơ, in chung, 1968)
Nguyễn
Văn Trỗi (trường ca, 1968)
Hoa
dừa (thơ, 197l)
Thơ
Lê Anh Xuân (tuyển thơ, 198l)
Giữ
đất (tập văn xuôi-1966)
Thành tựu nghệ thuật
Trong
cuộc đời ngắn ngủi của mình, Lê Anh Xuân đã sáng tác khá nhiều bài thơ chủ yếu
thể hiện tình yêu đối với quê hương đất nước, đặc biệt là vùng quê Bến Tre của
mình. Những bài thơ: Nhớ mưa quê hương, Trở về quê nội, Gửi miền Bắc,... được độc
giả yêu mến. Bài thơ cuối cùng của ông sáng tác năm 1968: Dáng đứng Việt Nam được
coi là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về người lính Quân đội Nhân dân
Việt nam đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt Nam:
Giáo
sư Cao Xuân Huy (1900 - 1983) là một nhà
nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, từng được gọi là
"nhà đạo học" ngay từ thuở mới khoảng 30 tuổi. Ông được xem là một
trong những người có những đóng góp to lớn trong việc đào tạo các nhà nghiên cứu
cổ học Việt Nam. Ông để lại một số giáo trình đại học có giá trị về Kinh Dịch,
Luận ngữ, Mạnh Tử, Bách gia chư tử. Ông còn là một Giáo sư của Viện Văn học.
Con ông là Cao Xuân Hạo là một nhà ngôn ngữ học, dịch giả nổi tiếng tại Việt
Nam.
Tiểu sử
Ông
sinh ngày 28 tháng 5 năm 1900 năm tại làng Thịnh Mỹ, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An, trong một gia đình dòng dõi khoa bảng danh gia. Ông nội ông là
Cao Xuân Dục. Cha ông là Cao Xuân Tiếu (1865-1939), đậu phó bảng khoa thi 1895,
giữ chức thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán triều nhà
Nguyễn.
Năm
1906, ông bắt đầu học chữ Hán với thầy của gia đình và được ông nội (là cụ Cao
Xuân Dục, khi đấy là Tổng tài Quốc sử quán) rèn cặp. Năm 1915, ông thi hương tại
trường thi Nghệ An. Sau đó, ông ra Huế theo học bậc Thành chung và tốt nghiệp
năm 1922. Sau đó, ông theo học trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương và tốt nghiệp
năm 1925. Sau khi tốt nghiệp, ông bước vào cuộc đời dạy học trong 55 năm chỉ
gián đoạn chút ít.
Cũng
trong năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam. Nhiều phong trào đấu
tranh chính trị đòi thả cụ Phan. Vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền
thống yêu nước và chống Pháp, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng.
Khi đó, ông đang dạy ở Trường Quốc học Huế. Năm 1926, ông gia nhập Tân Việt
Cách mạng đảng.
Năm
1927, thực dân Pháp tấn công đảng Tân Việt. Ông bị giải chức, đày ra Lao Bảo,
sau đó giải về Nghệ An mãi đến năm 1929 mới được thả, ông về làm công tạm cho
nhà in Đắc Lập, Huế. Từ năm 1935, ông vào Sài Gòn dạy tư thục Trung học Paul
Doumer và Trung học Chấn Thanh. Năm 1938, thầy trở ra Huế dạy tư thục Hồ Đắc
Hàm, Việt Anh, Thuận Hóa và tham gia viết báo tiếng Pháp: Revue pédagogique.
Năm
1945, ông được Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời ra Hà Nội dạy
môn triết học phương Đông tại trường Đại học Việt Nam. Trường này đóng cửa sau
3 tháng vì tình hình chính trị Việt - Pháp căng thẳng.
Sau
khi chiến tranh nổ ra, ông trở về quê nhà và được cử làm hiệu trưởng trung học
Nguyễn Xuân Ôn, Diễn Châu, Nghệ An. Trường năng khiếu huyện Diễn Châu mang tên
ông, Cùng thời gian này, ông còn kiêm các chức vụ quan trọng như giáo viên dạy
văn học và dạy Pháp văn, giáo viên trường trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc
Kháng, giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên ở vùng Thanh - Nghệ.
Năm
1949, ông là giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên do Bộ Giáo dục
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập tại vùng tự do Liên khu IV. Lớp có 7 học
sinh tốt nghiệp trung học chuyên khoa.
Năm
1951, ông được mời làm Giáo sư Trường Dự bị Đại học Việt Nam tại Thanh Hóa.
Tháng 12 năm 1954, ông được điều về Hà Nội giảng dạy môn triết học phương Đông,
môn logic học và môn tâm lý học cho lớp Đại học Văn khoa (tiền thân của khoa
văn ngữ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm
1957, ông được mời sang khoa ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, giảng dạy
môn tâm lý học. Năm 1958, ông được phong chức Giáo sư.
Cũng
trong năm 1958, vì có liên quan đến hoạt động của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm,
ông bị đình chỉ nhiệm vụ. Đến năm 1959, Viện Văn học thành lập, ông được cử làm
Trưởng Ban Hán - Nôm, rồi Trưởng Ban văn học cổ đại Việt Nam của Viện. Năm
1965, ông là giáo sư chính, giảng dạy môn triết học cho lớp đại học Hán Nôm tại
Hà Nội, chịu trách nhiệm đào tạo lớp chuyên tu Hán Nôm trên đại học
(1972-1974). Năm 1972, ông là chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp 4 năm của Viện Văn Học.
Trong
thời gian ở ban Hán Nôm, ông được mời thỉnh giảng ở khoa ngữ văn trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học Y - Dược Hà Nội,
Viện Đông Y Việt Nam.
Năm
1974, ông nghỉ hưu. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22 tháng 10 năm
1983, thọ 83 tuổi.
Giải thưởng
Ông
được Nhà nước Việt Nam tặng tưởng Huân chương Kháng Chiến hạng nhì (1960), giải
thưởng Hồ Chí Minh (truy tặng, 1996) cho công trình nghiên cứu Tư tưởng Phương
Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu.
Tên
ông được đặt cho một phố tại Phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh
vào năm 1985, và một con đường chính dài gần 1 km chạy từ bến xe khách chợ
Vinh, Nghệ An đến quốc lộ 1A tại thành phố Vinh.
Những đóng góp triết học và
văn học
Nghiên
cứu triết học Đông phương
Nghiên
cứu tư tưởng và văn hoá Việt Nam cổ, trung, đại
Chủ
Toàn và Chủ Biệt - Hệ Tư Tưởng Nhất Nguyên - Phi Bài Trung
Nghiên
cứu về Nhận Thức Luận
Động
và Tĩnh trong Cấu Trúc Luận
Tham
gia nghiên cứu và hiệu đính bản dịch Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, Nguồn gốc
các loài của Charles Darwin, Đông Chu Liệt Quốc của Phan Kế Bính, Trúc Lâm tông
chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm.
Những nhận định về ông
Giáo
sư Đặng Thai Mai: "Ở Việt Nam không ai hiểu học thuyết Lão Trang sâu sắc
hơn cụ Huy".
Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi, trong bài Cao Xuân Huy trong thế giới người hiền giới thiệu
cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu viết: "Cái tên
Cao Xuân Huy trong trí nhớ của hầu hết các thế hệ trí thức trong khoảng 50 năm
nay là đại biểu cho một ngành học hình như ai nghe cũng thấy sợ: triết học Đông
phương".
Viện
sĩ Eidelyn (Liên Xô): "Những nhà Trung Quốc học như cụ Cao Xuân Huy ở trên
thế giới chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay!".
Henry
Alfred Kissinger (tên khai sinh: Heinz Alfred Kissinger; 27 tháng 5 năm 1923 –)
là một nhà ngoại giao người Mỹ gốc Đức và Đức gốc Do Thái, người giành giải
Nobel Hòa bình năm 1973. Ông từng giữ chức cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ và
sau đó kiêm luôn chức thư kí liên bang (Secretary of State, hay là Bộ Trưởng
Ngoại Giao) dưới thời tổng thống Richard Nixon. Kissinger là người đã thoát khỏi
vụ bê bối Watergate và sau đó vẫn bảo đảm được vị trí quyền lực của mình khi
Gerald Ford trở thành tổng thống.
Là
người đề xuất "Realpolitik", Kissinger đóng một vai trò chen chốt
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ giai đoạn 1969 - 1970. Trong suốt thời
gian này, ông mở ra chính sách détente, chính sách đã giúp giải tỏa bớt mối
quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô và ông cũng đóng một vai trò quan trọng
trong cuộc đối thoại với thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai trong đó bao gồm việc
nối lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước đồng thời thiết lập mối quan hệ đồng
minh chiến lược Trung Quốc - Hoa Kỳ chống lại Xô Viết.
Trong
suốt quãng thời gian cầm quyền của Nixon và Ford ông được biết đến là một kiểu
người khoa trương, xuất hiện những buổi gặp mặt công chúng với nhiều người nổi
tiếng. Những phương pháp về chính sách đối ngoại của Kissinger đã khiến ông trở
thành kẻ thủ giữa phe cánh tả chống chiến tranh cũng như phe cánh hữu chống cộng
sản.
Với
những tài liệu dưới thời của Nixon và Ford được tiết lộ gần đây có liên quan đến
các chính sách của Mỹ với Nam Mỹ và Đông Timo.[cần dẫn nguồn] Kissinger đã trở
thành tâm điểm chỉ trích và săn tìm của giới báo chí cũng như những nhóm biện
luận nhân quyền, cả ở trong nước cũng như quốc tế.[cần dẫn nguồn] Sau khi những
tài liệu được tiết lộ, nhiều công chức của chính phủ Pháp, Brasil, Chile, Tây
Ban Nha, Argentina đã tìm ông để hỏi về các vấn đề liên quan đến tội ác chiến
tranh đang bị tình nghi như Operation Condor (chiến dịch Kền Kền), gây nhiều
khó khăn cho các chuyên đi nước ngoài của ông.
Joseph
Brodsky (24 tháng 5 năm 1940 - 28 tháng 1 năm 1996), tên trong khai sinh là
Iosif Aleksandrovich Brodsky (tiếng Nga: Иосиф Александрович Бродский), là một
nhà thơ, nhà văn Mỹ gốc Nga đoạt Giải Nobel Văn học năm 1987.
Tiểu sử
Cuộc
đời của nhà thơ sinh tại Leningrad này, ngay từ nhỏ, có những chi tiết thú vị.
Thời thơ ấu Brodsky sống trong một căn hộ nhỏ của ngôi nhà mà trước Cách mạng
tháng Mười Nga đã từng sống hai nhà thơ Nga sau đó cũng ra sống ở nước ngoài:
Dmitry Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Ông cũng học ở trường phổ thông mà ngày
trước Alfred Nobel đã từng học và năm 1987 được trao giải Nobel.
Thuở
nhỏ Brodsky mơ ước trở thành bác sĩ nhưng 15 tuổi đã phải nghỉ học vì mưu sinh.
Sau đó, ông tự học tiếng Anh, tiếng Ba Lan, nghiên cứu truyền thuyết, tôn giáo
và triết học. Ông bắt đầu làm thơ lúc 16 tuổi; khi 17 tuổi ông hoàn thành tập
thơ nổi tiếng Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... (Прощай, позабудь и
не обессудь...) và được công nhận là một nhà thơ, một dịch giả tài năng. Năm
1963 Brodsky bị kết tội "ăn bám xã hội" và gửi đi cải tạo 5 năm ở miền
bắc Nga. Nhờ sự phản đối của các nhà văn trong và ngoài nước hai năm sau ông được
trở về Leningrad. Năm 1972, ông lại bị trục xuất, phải sang Viên, London và cuối
cùng là Hoa Kỳ. Từ đây, Brodsky sáng tác bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh.
Năm
1977, ông nhập quốc tịch Mỹ và làm giáo sư văn học cho trường Cao đẳng Five
College ở Mount Holyoke, bang Massachusetts. Năm 1978, Đại học Yale trao cho J.
Brodsky bằng tiến sĩ văn học danh dự. Năm 1979, ông trở thành thành viên của Viện
Hàn lâm Nghệ thuật - Văn chương Mỹ. Năm 1981, ông được Quỹ John D. và Catherine
T. MacArthur trao tặng giải thưởng cho các tác phẩm thiên tài. Năm 1986, cuốn
tiểu luận về nghệ thuật và chính trị Ít hơn một của ông được giải thưởng của
Nhóm các nhà phê bình sách Quốc gia (Mỹ). Năm 1987, ông nhận giải Nobel của Viện
Hàn lâm Thụy Điển và năm 1991 nhận được giải thưởng của Thư viện Quốc hội Mỹ.
Brodsky
sáng tạo nên một thế giới thơ ca độc đáo được thể hiện bằng những quan niệm của
nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà phê bình coi ông "là người tổng kết thơ
ca thế kỷ 20". Joseph Brodsky qua đời ngày 28/1/1996 tại nhà riêng vì căn bệnh
nhồi máu cơ tim.
Lời khai trước tòa của
Brodsky
Dưới
đây là những câu hỏi và lời khai của Brodsky trước Tòa về tội “ăn bám”. Những lời
này được thư ký của phiên tòa ghi lại và sau đó được phổ biến trong những bài
viết in ngoài luồng (samizdat).
Tòa:
Thâm niên lao động của anh là bao nhiêu?
Brodsky:
Khoảng chừng…
Tòa:
Chúng tôi không cần “khoảng chừng”!
Brodsky:
Năm năm.
Tòa:
Anh làm việc ở đâu?
Brodsky:
Ở nhà máy. Ở các nhóm địa chất…
Tòa:
Anh làm ở nhà máy bao nhiêu lâu?
Brodsky:
Một năm.
Tòa:
Làm nghề gì?
Brodsky:
Thợ phay.
Tòa:
Thế nói chung nghề chuyên môn của anh là gì?
Brodsky:
Nhà thơ, nhà thơ – dịch giả.
Tòa:
Ai thừa nhận anh là nhà thơ? Ai xếp anh vào hàng ngũ các nhà thơ?
Brodsky:
Không ai cả. Thế ai xếp tôi vào giống người?
Tòa:
Thế anh có học cái đó không?
Brodsky:
Cái gì?
Tòa:
Cái nghề làm thơ ấy? Anh đã không cố gắng học đại học… nơi người ta dạy…
Brodsky:
Tôi không nghĩ… tôi không nghĩ là học vấn mang lại điều này.
Tòa:
Thế thì cái gì?
Brodsky:
Tôi nghĩ… đó là (thất vọng) do trời phú…
Tòa:
Anh có yêu cầu gì với Tòa không?
Brodsky:
Tôi muốn được biết tôi bị bắt vì tội gì?
Tòa:
Đấy là câu hỏi chứ không phải yêu cầu.
Brodsky:
Thế thì tôi chả có yêu cầu gì cả.
Ngày
13 tháng 3 năm 1964 Brosky bị kết án vì tội “ăn bám” và chịu hình phạt cao nhất
là 5 năm lao động cải tạo ở làng Norenskaya, tỉnh Arkhangelsk. Trong một bài phỏng
vấn, Brodsky gọi đấy là thời kỳ hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mình. Chính
thời gian này ông đi sâu tìm hiểu về thơ ca Anh.
Tác phẩm
Прощай,
позабудь и не обессудь... (Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau...,
1957), thơ
Большая
элегия Джону Донну (Khúc bi ca lớn gửi Donne John, 1963)
Стихотворения
и поэмы (Thơ và trường ca, 1965), thơ
Остановка
в пустыне (Trạm dừng trong sa mạc, 1970), thơ
Конец
прекрасной эпохи. Стихотворения 1964-71 (Kết thúc thời tốt đẹp. Thơ những năm
1964-71, 1977), thơ
Часть
речи. Стихотворения 1972-76 (Một phần của lời nói. Thơ những năm 1972-76,
1980), thơ và bài viết
Римские
элегии (Những khúc bi ca La Mã, 1982), thơ
Новые
стансы к Августе (Những bài tứ tuyệt mới gửi Augusta, 1983), thơ
Мрамор
(Сẩm thạch, 1984), kịch
Меньше
одиницы (Ít hơn một, 1986), tiểu luận
History
of the twentieth century (Lịch sử thế kỉ hai mươi, 1986), thơ
Урания
(Urania, 1988), thơ
Заметки
папоротника (Bút kí dương xỉ, 1990)
На
околицах Атлантиды (Trên các nẻo Atlantida, 1992)
Набережная
неисцелимых (Bờ sông của những kẻ vô phương cứu chữa, 1992), thơ
Watermark
(Hoa văn mờ trên giấy, 1992), tiểu luận
Скорбь
и разум (Nỗi đau và lí trí, 1995), tiểu luận
Harry
Hammond Hess (24 tháng 5 năm 1906 – 25 tháng 8 năm 1969) là nhà địa chất học và
sĩ quan hải quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Thế giới thứ hai.
Ông
được xem là một trong những người tiên phong trong việc thống nhất học thuyết về
kiến tạo mảng, là Thiếu tướng hải quân Hoa Kỳ. Ông nổi tiếng với các học thuyết
về tách giãn đáy đại dương, một công trình thể hiện mối liên hệ giữa cung đảo,
dị thường từ đáy biển, và peridotit bị serpentin hóa, theo đó sự đối lưu của
manti Trái Đất là lực chủ yếu gây ra chuyển động tách giãn. Công trình này làm
nền tảng cho sự phát triển của học thuyết kiến tạo mảng.
Giảng dạy
Harry
Hess dạy 4 năm (1932–1933) ở Đại học Rutgers ở New Jersey và một năm làm nghiên
cứu ở phòng thí nghiệm địa vật lý của Washington, D. C., trước khi làm việc ở Đại
học Princeton năm 1934. Hess làm trưởng Bộ môn địa chất ở Princeton từ năm 1950
đến 1966. Ông là giáo sư thỉnh giảng ở Đại học Cape Town, Nam Phi (1949–1950),
và Đại học Cambridge, Anh (1965).
Trong quân đội
Hess
gia nhập Hải quân Hoa Kỳ trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, và trở thành
thiếu tướng Hải quân của USS Cape Johnson, một tàu vận tải được trang bị kỹ thuật
mới là: máy định vị thủy âm. Thiết bị này có thể góp một phần trong việc phát
triển học thuyết về tách giãn đáy biển của ông. Hess ghi chép cẩn thận các lộ
trình đi qua Thái Bình Dương khi cập vào Marianas, Philippines, và đảo Iwo, từ
máy đo hồi âm trên tàu của ông. Các cuộc khảo sát khoa học trong thời chiến
không có kế hoạch trước đã giúp Hess thu thập các mặt cắt đáy đại dương ở vùng
bắc Thái Bình Dương, và phát hiện ra các núi lửa đỉnh bằng dưới biển mà ông gọi
là guyot, theo tên của nhà địa lý thế kỷ 19, Arnold Henry Guyot. Sau chiến
tranh, ổng tiếp tục ở lại Naval Reserve, và được phong làm thiếu tướng Hải quân
Hoa Kỳ.
Khám phá khoa học
Năm
1960, Hess đã đưa ra một đóng góp quan trọng nhất của riêng ông là một phần
trong những tiến bộ khoa học trong khoa học địa chất của thế kỷ 20. Trong một
báo cáo đã được truyền bá rộng rãi mà ông gởi đến Phòng nghiên cứu Hải quân Hoa
Kỳ (Office of Naval Research), theo đó ông đã đề xuất học thuyết liên quan đến
sự chuyển động của vỏ Trái Đất theo hướng ngày càng xa sống núi giữa đại dương
có hoạt động núi lửa. Tách giãn đáy biển, tên gọi một quá trình được đặt sau
này, đã giúp truyền bá quan điểm trôi dạt lục địa của Alfred Wegener trước kia
(nhưng thời điểm đó chúng bị bác bỏ) như là một thành tựu khoa học. Điều này đã
thúc đẩy một cuộc cách mạng trong các khoa học về Trái Đất. Bản báo cáo của
Hess được xuất bản chính thức trong quyển History of Ocean Basins (1962) của
ông. Đây là một công trình tham khảo duy nhất trong địa vật lý vật chất rắn.
Hess cũng liên quan đến một số đóng góp khoa học khác như dự án Mohole
(1957–1966), một khảo sát về công nghệ và tính khả thi của Chương trình khoan
biển sâu.
Qua đời
Hess
chết vì nhồi máu cơ tim ở Woods Hole, Massachusetts, vào ngày 25 tháng 8 năm
1969, trong khi đang chủ trì buổi họp Hội đồng Khoa học vũ trụ của Viện hàn lâm
Khoa học Hoa Kỳ. Ông được chôn tại nghĩa trang Arlington và đã được truy tặng
giải thưởng Distinguished Public Service của Cục Hàng không và Không gian Hoa Kỳ.
Hess
đã đoạt Huy chương Penrose của Hội Địa chất Hoa Kỳ năm 1966. Hội Địa vật lý Hoa
Kỳ đã đặt ra huy chương Harry H. Hess trong buổi lễ tưởng niệm ông năm 1984 nhằm
"ghi nhận những đóng góp trong nghiên cứu về sự tiến hóa của Trái Đất và
các hành tinh tương tự Trái Đất.”