Hiển thị các bài đăng có nhãn NHÀ VĂN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NHÀ VĂN. Hiển thị tất cả bài đăng
24 tháng 5 2013
Joseph
Brodsky (24 tháng 5 năm 1940 - 28 tháng 1 năm 1996), tên trong khai sinh là
Iosif Aleksandrovich Brodsky (tiếng Nga: Иосиф Александрович Бродский), là một
nhà thơ, nhà văn Mỹ gốc Nga đoạt Giải Nobel Văn học năm 1987.
Tiểu sử
Cuộc
đời của nhà thơ sinh tại Leningrad này, ngay từ nhỏ, có những chi tiết thú vị.
Thời thơ ấu Brodsky sống trong một căn hộ nhỏ của ngôi nhà mà trước Cách mạng
tháng Mười Nga đã từng sống hai nhà thơ Nga sau đó cũng ra sống ở nước ngoài:
Dmitry Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Ông cũng học ở trường phổ thông mà ngày
trước Alfred Nobel đã từng học và năm 1987 được trao giải Nobel.
Thuở
nhỏ Brodsky mơ ước trở thành bác sĩ nhưng 15 tuổi đã phải nghỉ học vì mưu sinh.
Sau đó, ông tự học tiếng Anh, tiếng Ba Lan, nghiên cứu truyền thuyết, tôn giáo
và triết học. Ông bắt đầu làm thơ lúc 16 tuổi; khi 17 tuổi ông hoàn thành tập
thơ nổi tiếng Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... (Прощай, позабудь и
не обессудь...) và được công nhận là một nhà thơ, một dịch giả tài năng. Năm
1963 Brodsky bị kết tội "ăn bám xã hội" và gửi đi cải tạo 5 năm ở miền
bắc Nga. Nhờ sự phản đối của các nhà văn trong và ngoài nước hai năm sau ông được
trở về Leningrad. Năm 1972, ông lại bị trục xuất, phải sang Viên, London và cuối
cùng là Hoa Kỳ. Từ đây, Brodsky sáng tác bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh.
Năm
1977, ông nhập quốc tịch Mỹ và làm giáo sư văn học cho trường Cao đẳng Five
College ở Mount Holyoke, bang Massachusetts. Năm 1978, Đại học Yale trao cho J.
Brodsky bằng tiến sĩ văn học danh dự. Năm 1979, ông trở thành thành viên của Viện
Hàn lâm Nghệ thuật - Văn chương Mỹ. Năm 1981, ông được Quỹ John D. và Catherine
T. MacArthur trao tặng giải thưởng cho các tác phẩm thiên tài. Năm 1986, cuốn
tiểu luận về nghệ thuật và chính trị Ít hơn một của ông được giải thưởng của
Nhóm các nhà phê bình sách Quốc gia (Mỹ). Năm 1987, ông nhận giải Nobel của Viện
Hàn lâm Thụy Điển và năm 1991 nhận được giải thưởng của Thư viện Quốc hội Mỹ.
Brodsky
sáng tạo nên một thế giới thơ ca độc đáo được thể hiện bằng những quan niệm của
nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà phê bình coi ông "là người tổng kết thơ
ca thế kỷ 20". Joseph Brodsky qua đời ngày 28/1/1996 tại nhà riêng vì căn bệnh
nhồi máu cơ tim.
Lời khai trước tòa của
Brodsky
Dưới
đây là những câu hỏi và lời khai của Brodsky trước Tòa về tội “ăn bám”. Những lời
này được thư ký của phiên tòa ghi lại và sau đó được phổ biến trong những bài
viết in ngoài luồng (samizdat).
Tòa:
Thâm niên lao động của anh là bao nhiêu?
Brodsky:
Khoảng chừng…
Tòa:
Chúng tôi không cần “khoảng chừng”!
Brodsky:
Năm năm.
Tòa:
Anh làm việc ở đâu?
Brodsky:
Ở nhà máy. Ở các nhóm địa chất…
Tòa:
Anh làm ở nhà máy bao nhiêu lâu?
Brodsky:
Một năm.
Tòa:
Làm nghề gì?
Brodsky:
Thợ phay.
Tòa:
Thế nói chung nghề chuyên môn của anh là gì?
Brodsky:
Nhà thơ, nhà thơ – dịch giả.
Tòa:
Ai thừa nhận anh là nhà thơ? Ai xếp anh vào hàng ngũ các nhà thơ?
Brodsky:
Không ai cả. Thế ai xếp tôi vào giống người?
Tòa:
Thế anh có học cái đó không?
Brodsky:
Cái gì?
Tòa:
Cái nghề làm thơ ấy? Anh đã không cố gắng học đại học… nơi người ta dạy…
Brodsky:
Tôi không nghĩ… tôi không nghĩ là học vấn mang lại điều này.
Tòa:
Thế thì cái gì?
Brodsky:
Tôi nghĩ… đó là (thất vọng) do trời phú…
Tòa:
Anh có yêu cầu gì với Tòa không?
Brodsky:
Tôi muốn được biết tôi bị bắt vì tội gì?
Tòa:
Đấy là câu hỏi chứ không phải yêu cầu.
Brodsky:
Thế thì tôi chả có yêu cầu gì cả.
Ngày
13 tháng 3 năm 1964 Brosky bị kết án vì tội “ăn bám” và chịu hình phạt cao nhất
là 5 năm lao động cải tạo ở làng Norenskaya, tỉnh Arkhangelsk. Trong một bài phỏng
vấn, Brodsky gọi đấy là thời kỳ hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mình. Chính
thời gian này ông đi sâu tìm hiểu về thơ ca Anh.
Tác phẩm
Прощай,
позабудь и не обессудь... (Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau...,
1957), thơ
Большая
элегия Джону Донну (Khúc bi ca lớn gửi Donne John, 1963)
Стихотворения
и поэмы (Thơ và trường ca, 1965), thơ
Остановка
в пустыне (Trạm dừng trong sa mạc, 1970), thơ
Конец
прекрасной эпохи. Стихотворения 1964-71 (Kết thúc thời tốt đẹp. Thơ những năm
1964-71, 1977), thơ
Часть
речи. Стихотворения 1972-76 (Một phần của lời nói. Thơ những năm 1972-76,
1980), thơ và bài viết
Римские
элегии (Những khúc bi ca La Mã, 1982), thơ
Новые
стансы к Августе (Những bài tứ tuyệt mới gửi Augusta, 1983), thơ
Мрамор
(Сẩm thạch, 1984), kịch
Меньше
одиницы (Ít hơn một, 1986), tiểu luận
History
of the twentieth century (Lịch sử thế kỉ hai mươi, 1986), thơ
Урания
(Urania, 1988), thơ
Заметки
папоротника (Bút kí dương xỉ, 1990)
На
околицах Атлантиды (Trên các nẻo Atlantida, 1992)
Набережная
неисцелимых (Bờ sông của những kẻ vô phương cứu chữa, 1992), thơ
Watermark
(Hoa văn mờ trên giấy, 1992), tiểu luận
Скорбь
и разум (Nỗi đau và lí trí, 1995), tiểu luận
Một số bài thơ
Vĩnh biệt, hãy quên, đừng
trách cứ gì nhau...
Vĩnh
biệt
Hãy
quên
Đừng
trách cứ gì nhau.
Còn
những bức thư
Em
hãy đốt
Như
cầu.
Con
đường của em
Sẽ
trở thành can đảm
Con
đường thẳng
Và
sẽ giản đơn.
Rồi
đây trong màn sương
Sẽ
cháy lên cho em
Một
vì sao ngời sáng
Và
một niềm hy vọng
Của
bàn tay sưởi ấm
Bên
bếp lửa nhà em.
Rồi
sẽ có bão tuyết, mưa giông
Và
tiếng gào điên cuồng của lửa
Sẽ
có những thành công rực rỡ
Phía
trước đợi chờ em
Sẽ
tuyệt vời và mạnh mẽ vô cùng
Một
trận đánh
Sẽ
vang lên trong lồng ngực của em.
Anh
hạnh phúc và xin chúc mừng
Cho
người, mà có thể
Sẽ
đi cùng em
Trên
một con đường.
Hai năm sau
Vâng,
ta chẳng già hơn chẳng điếc hơn.
Ta
vẫn nói những lời như ngày trước.
Như
ngày trước, áo màu đen vẫn khoác
Những
phụ nữ kia vẫn ít cảm tình.
Ta
bây giờ vào vai không thường xuyên
Trong
những bậc dốc nhà hát cô đơn
Những
ngọn đèn trên đầu ta vẫn thắp
Như
tiếng hò reo, hoan hỉ của đêm.
Ta
sống bằng quá khứ, như bây giờ
Với
tương lai, thời của ta chẳng giống
Ta
không ngủ, người ngủ ta quên lãng
Và
ta vẫn làm những việc như xưa.
Hãy
giữ gìn vẻ vui nhộn ngây thơ
Trong
tuần hoàn bóng đêm và ánh sáng
Những
người vĩ đại cho vinh quang, cay đắng
Những
kẻ nhân từ cho thế kỷ hư vô.
Mikhail Aleksandrovich Sholokhov - Nhà văn Liên Xô nổi tiếng
Mikhail
Aleksandrovich Sholokhov (phiên âm tiếng Việt: Mi-kha-in A-lếch-xan-đrô-vích
Sô-lô-khốp; tiếng Nga: Михаил Александрович Шолохов) (sinh ngày 24 tháng 5, lịch
cũ ngày 11 tháng 5, năm 1905, mất ngày 21 tháng 2 năm 1984) là một nhà văn Liên
Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965.
Mikhail
Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm,
tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của
Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng
Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Tiểu sử
Mikhail
Sholokhov sinh năm 1905 trong một gia đình người Cozak ở Kamenskaya thuộc Đế quốc
Nga. Bố của ông là một nông dân Cozak, còn mẹ ông xuất thân từ một gia đình
nông dân người Ukraina đã từng có một đời chồng. Sholokhov đi học tại các trường
phổ thông ở Kargin, Moskva, Boguchar và Veshenskaya; đến năm 1918 thì tham gia
Hồng quân chiến đấu trong Nội chiến Nga. Khi đó Sholokhov mới 13 tuổi
Sự
nghiệp
Trước
Thế chiến thứ hai
Sholokhov bắt đầu sáng tác ở tuổi 17. Ông cho
ra đời tác phẩm đầu tiên, truyện ngắn Cái bớt năm 19 tuổi. Năm 1922 Sholokhov
chuyển tới thủ đô Moskva với hy vọng trở thành một nhà báo. Trong thời gian đầu
ở thủ đô, ông phải kiếm sống bằng những công việc chân tay như công nhân bốc
vác, thợ xây và nhân viên kế toán từ năm 1922 đến 1924 trong khi vẫn cố gắng
tham gia các lớp học ngắn hạn dành cho các nhà văn trẻ.
Năm 1924 Sholokhov trở về Veshenskaya và bắt
đầu tập trung hoàn toàn vào việc sáng tác. Cùng năm này, ông cưới cô Maria
Petrovna Gromoslavskaia, hai người sau đó đã có hai người con trai và hai người
con gái. Hai năm sau, Sholokhov cho xuất bản tập truyện ngắn Những câu chuyện
sông Đông (Donskie Rasskazy) viết về cuộc sống của những người Cozak quê hương
ông trong giai đoạn Thế chiến thứ nhất và Nội chiến Nga. Cũng trong năm 1926,
nhà văn bắt đầu viết những dòng đầu tiên của bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm
đềm (Tikhii Don). Bộ tiểu thuyết về cuộc sống của những người Cozak này đã được
ông viết ròng rã trong gần 14 năm với 4 tập. Tác phẩm đã trở thành một trong những
tiểu thuyết của Văn học Xô viết phổ biến nhất và đã đem lại cho tác giả của nó
Giải Nobel Văn học năm 1965. Khi bắt đầu viết tác phẩm đồ sộ này, Sholokhov mới
21 tuổi, vì vậy Sông Đông êm đềm trong nhiều năm đã bị nghi là đạo văn và còn bị
đề nghị cắt bớt đi một số đoạn bị coi là "không phù hợp" vào thời bấy
giờ. Nhưng nhờ có sự ủng hộ của các nhà văn lão thành như Maxim Gorky và cả của
Stalin, tác phẩm mới được in và phát hành rộng rãi, đồng thời đưa nhà văn trẻ
trở thành một trong những đại diện xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Sau này một số ủy ban đã được thành lập với nhiệm vụ điều tra
xem "Sông Đông êm đềm" có phải là một tác phẩm đạo văn không và họ đều
đi đến kết luận là tác phẩm này đích thực là của Sholokhov, nhất là khi bản thảo
tác phẩm được tìm thấy năm 1999.
Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu
tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản
ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải
mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy
trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng
Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô.
Mikhail
Sholokhov gia nhập Đảng Bolshevik năm 1932 và đến năm 1937 ông được bầu vào Xô
viết Tối cao Liên Xô. Năm 1939 nhà văn được bầu làm Viện sĩ Viện Hàm lâm Khoa học
Xô viết và một thời gian sau là Phó chủ tịch Hội nhà văn Xô viết.
Thời gian chiến tranh và sau
đó
Khi
Chiến tranh vệ quốc vĩ đại nổ ra tháng 6 năm 1941, cũng như nhiều nhà văn khác,
Sholokhov tạm ngừng việc sáng tác các tác phẩm "thời bình" để chuyển
sang viết các tác phẩm về đề tài chiến tranh và khích lệ tinh thần các chiến sĩ
Hồng quân. NĂm 1942 ông cho ra đời tập truyện ngắn Khoa học căm thù (Nauka
Nenavisti) viết về cuộc chiến đấu của những người lính Xô viết chống lại quân đội
Đức Quốc xã. Cùng trong năm này Sholokhov bắt đầu sáng tác tập đầu tiên của bộ
tiểu thuyết Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (Oni Srazhalis Za Rodinu) viết về cuộc đời
những người nông dân Nga bình thường phải đứng lên cầm súng để bảo vệ tổ quốc,
tập đầu của bộ tiểu thuyết được ra đời ngay trong chiến tranh. Tuy nhiên tập thứ
hai của tác phẩm gây nhiều tranh cãi. Sau khi Tổng bí thư Nga lúc bấy giờ mời
Sholockhov lên nói chuyện trở về ông đã đốt tập bản thảo của tập hai bộ tiểu
thuyết và bộ tiểu thuyết không bao giờ có tập hai.
Sau
chiến tranh, năm 1956 Sholokhov tiếp tục đề tài chiến tranh khi cho ra đời tác
phẩm nổi tiếng Số phận một con người (Sudba Cheloveka) với câu hỏi lớn:
"Liệu nhân loại có thể vượt qua thương tổn do chủ nghĩa phát xít gây nên để
xây dựng cuộc sống yên bình hay không". Đây là tiểu thuyết xuất sắc của
Sholokhov đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh của đạo diễn Sergei
Bondarchuk với chính Bondarchuk thủ vai chính, tác phẩm cũng được đưa vào nhà
trường phổ thông để giảng dạy.
Năm
1966 tiểu thuyết Sông Đông êm đềm cũng được chuyển thể thành bộ phim cùng tên của
đạo diễn Sergei Gerasimov. Một năm sau đó nhà văn được phong danh hiệu Anh hùng
Lao động Xã hội chủ nghĩa.
Mikhail
Sholokhov mất tại Moskva ngày 21 tháng 2 năm 1984 ở tuổi 79.
Vinh danh
Mikhail
Sholokhov là một trong số ít nhà văn Xô viết được tặng thưởng Giải Nobel Văn học,
ông được đánh giá cao cả trong và ngoài Liên Xô. Nhiều bức tượng của nhà văn đã
được dựng lên ở các thành phố Nga trong đó bức tượng mới nhất được dựng ngày 25
tháng 4 năm 2007 ở Moskva.
Tên
của ông được dặt cho một tiểu hành tinh trong vành đai chính, 2448 Sholokhov.
Tác phẩm
Những
câu chuyện sông Đông (Донские рассказы) (1925, tập truyện ngắn)
Thảo
nguyên xanh (Лазоревая степь) (1926, tập truyện ngắn)
Sông
Đông êm đềm (Тихий Дон) (1928-1940, tiểu thuyết 4 tập)
Đất
vỡ hoang (Поднятая целина) (1932-1960, tiểu thuyết 2 tập)
Họ
đã chiến đấu vì Tổ quốc (Они сражались за Родину) (1942, phần đầu tiểu thuyết)
Khoa
học căm thù (Nauka Nenavisti) (1942, tập truyện ngắn)
Слово
о Родине (1951)
Số
phận một con người (Судьба человека) (1956-1957, truyện vừa)
Sobranie
Sochinenii (1956-1958, tuyển tập các tác phẩm gồm 8 tập)
Họ
đã chiến đấu vì Tổ quốc (Oni Srazhalis Za Rodinu) (1959, phần tiếp theo)
Po
Veleniju Duši (1970)
22 tháng 5 2013
TRÚC KHÊ - NHÀ VĂN VIỆT NAM
Trúc
Khê (1901-1947), tên thật là Ngô Văn Triện; các bút danh khác là: Cấm Khê, Kim
Phượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình. Ông là nhà văn, nhà báo,
nhà cách mạng Việt Nam.
Cuộc
đời
Trúc
Khê sinh ngày 22 tháng 5 năm 1901 trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ
công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông
(nay là xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội).
Năm
lên 6 tuổi, ông học chữ Hán với một ông đồ ở trong làng. Năm 11 tuổi, ông học
Quốc ngữ ở trường Pháp-Việt, tự học thêm tiếng Pháp, đồng thời vẫn tiếp tục học
chữ Hán, dù sau này triều đình Huế đã bỏ thi khoa cử. Vừa học, vừa đi chăn
trâu, đến năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng
sách ở nhà in Thực Nghiệp, Hà Nội.
Năm
19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: Cải lương hương tục, được đăng trên tờ Trung
Bắc tân văn năm 1920.
Năm
1926, ông vào làm trong ban biên tập của Thực nghiệp dân báo. Khoảng năm 1927,
ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi
thực dân Pháp. Nhưng khi gặp Phạm Tuấn Tài, ông theo nhóm Nam Đồng thư xã; rồi
sau nữa, khi Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập, ông theo đảng phái này.
Năm
1928, Trúc Khê mở Trúc Khê thư cục ở trên gác nhà số 196 phố Hàng Bông (Hà Nội)
để tự xuất bản sách của minh [2] Ông hoạt động chính trị cho đến năm 1929, thì
bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), nhận án 2 năm tù treo và 5
năm quản thúc.
Ra
tù, ông theo hẳn nghề báo. Năm 1933, ông làm Chủ bút báo Bắc Hà. Năm 1934, ông
làm Chủ bút báo Thương mại. Từ 1935, ông chuyên viết cho các báo Tiểu thuyết thứ
bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Tao đàn...Từ năm 1941, ông còn viết cho các báo
Tri tân, Nước Nam, Đông Tây, Ích hữu, Dân báo, Khuyến học, Tri Tân, Quốc gia,
Truyền bá, Đông phương nhật báo, v.v...
Mặt
khác, từ năm 1937 đến 1945, ông còn trước tác, dịch thuật và biên khảo khoảng
60 cuốn sách.
Năm
1941 đến 1945, ông tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ tại Hà Nội.
Năm
1946, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa
Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ở đây, ông giao liên đưa
lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì
lâm bệnh nặng rồi mất (26 tháng 8 năm 1947) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.
Năm
2005, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đặt tên phố Trúc Khê cho một con đường tại
phường Láng Hạ, quận Đống Đa, nối đường Nguyễn Chí Thanh với phố Vũ Ngọc Phan.
Tác phẩm chính
Trong
hơn 20 năm cầm bút Trúc Khê đã để lại gần 60 tác phẩm, không kể các bài bình luận,
biên khảo đăng rải rác trên các báo. Các tác phẩm chính có:
Thơ
Chợ
chiều
Đò
chiều
Tiểu thuyết
Trăm
lạng vàng (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
Nát
ngọc (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1939)
Hồn
về
Trăm
lạng vàng (tiểu thuyết lịch sử)
Truyện
ký danh nhân [sửa]
Hùng
Vương diễn nghĩa
Mai
Thúc Loan
Cao
Bá Quát (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1940)
Nguyễn
Trãi (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941)
Trần
Thủ Độ (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
Chu
Mạnh Trinh (Nxb Cộng Lực - Hà Nội, 1942)
Bùi
Huy Bích (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1944), v.v...
Phạm
Đình Trọng (Nxb Thanh Bình - Hà Nội, 1952)
Lý
Bạch
Đỗ
Phủ
Vũ
Phạm Khải, v.v...
Biên khảo
Lịch
sử khôi phục quốc quyền của ba nước Đông phương
Lịch
sử Nam tiến của dân tộc ta
Tình
sử Việt Nam (2 tập. Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941), v.v...
Vấn
đề cải cách lễ tục Việt Nam
Khảo
về Đạo giáo
Khảo
về các nguồn gốc các thể thơ từ Trung Quốc
Ba
Lan phục hưng, v.v...
Tạp văn
Hồn
quê I, II
Dịch
thuật
Kinh
Thi (Nxb Cộng lực)
Tình
sử Trung Hoa (2 tập. Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1940-1941)
Thánh
Gandhi với cuộc vận động độc lập ở Ấn Độ.
Đồng
mệnh điểu
Ngọc
Lê hồn
Hán
sở tranh hùng
Tôn
Ngô binh pháp
Maxime
Gorki
Lĩnh
Nam chích quái
Mắng
kẻ bàng quan (Ẩm băng văn tập)
Truyền
kỳ mạn lục (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
Tang
thương ngẫu lục (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
Ức
Trai thi văn tập (Nxb Lê Cường - Hà Nội, 1945)
Phụ
nữ Đức-Ý
Ba
Lan phục hưng sử
Bao
Công kỳ án (Nxb Thực Nghiệp - Hà Nội, 1925)
Lý
Đỗ (Nxb Cộng Lực - Hà Nội, 1944)
Tùy
Đường diễn nghĩa
Mãn
Thanh nhập đế
Sách
thuốc Hoàng đế nội kinh tố vấn, v.v...
Truyện
thiếu nhi [sửa]
Ông
Hổ (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
Phạm
Tử Hư lên chầu trời...
Nhận xét
Tác giả
Nói
đến Trúc Khê, Lữ Huy Nguyên có lần đã bộc bạch như sau:
...Tôi
vẫn cứ muốn tin rằng nhà văn Trúc Khê đang hiện diện giữa chúng ta, chân đi
giày Gia Định, áo the khăn xếp, bộ quốc phục mà ông vẫn thường vận những ngày
làm báo Tiểu thuyết thứ bảy hay Phổ thông bán nguyệt san. Con người phong nhã,
lịch thiệp, nghiêm túc, đạo đức ấy không nghiện thứ gì...
Trong
Lời bạt in trong tập thơ Lý Bạch do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:
Ông
là người ưa thích hoạt động xã hội, tinh thần tự học rất cao và liên tục. Hồi
còn đi học, ông học cả trong lúc ăn, lúc xay lúa giã gạo, đi đâu cũng mang sách
theo. Ông là người có tinh thần dân tộc ngay cả trong suy nghĩ, sáng tác,
nghiên cứu cũng như trong sinh hoạt, ứng xử. Một người giàu lòng hiếu khách,
yêu thiên nhiên hoa cỏ.
Tác phẩm
Trúc
Khê không lấy văn chương làm mục đích. Mục đích của ông là làm sao cho “ích nước
lợi dân”. Ông khảo cứu, dịch thuật, biên soạn... đều nhằm mục đích ấy... Lòng
yêu nước của ông là việc nâng cao dân trí. Nói sao cho dân hiểu, gợi sao cho
dân tự nghĩ... để tự đứng dậy giải phóng mình. Vì lẽ đó, mặc dù ông tạ thế ở tuổi
46, nhưng cũng đã làm được nhiều việc. Những nhận xét của ông về văn chương, về
thời thế, về lịch sử... đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa...
Nói
về sự nghiệp văn chương của Trúc Khê, nhà nghiên cứu Văn Tâm trong Từ điển Văn
học (bộ mới), có lời nhận xét khái quát như sau:
Trúc
Khê dịch thơ chưa thật đặc sắc, nhưng cố gắng bám sát nguyên tác; biên khảo với
tinh thần cấp tiến... Một bộ phận đáng chú ý trong sự nghiệp văn học của ông là
những truyện ký danh nhân. Tất nhiên, không tránh khỏi hạn chế về nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật; nhưng với quan điểm tiến bộ, vốn Hán học sâu rộng,
và bút pháp cũng khá nhuần nhị; ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống, việt
được một số trang khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực.
Vốn
có lòng yêu nước, cho nên ông đã viết một số phẩm theo thể loại này cốt để đề
cao tinh thần dân tộc như chính ông có lần bộc lộ: "Tiểu thuyết lịch sử...phải
làm cho người đọc sinh lòng nhớ mến nước cũ, có mối cảm tình thắm thiết với chủng
tộc, giang sơn"
Sir Arthur Conan Doyle - Nhà văn nổi tiếng nguoiwd Scotland
Sir
Arthur Conan Doyle (22 tháng 5 năm 1859 – 7 tháng 7 năm 1930) là một nhà văn
người Scotland nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám Sherlock Holmes, tác phẩm
được cho là một sáng kiến lớn trong lĩnh vực tiểu thuyết trinh thám. Các tác phẩm
của ông bao gồm nhiều truyện khoa học giả tưởng, tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch
sử, tiểu thuyết, thơ và bút ký.
Conan
xuất phát là tên đệm nhưng ông sử dụng như một phần của họ trong các năm sau
này của mình.
Arthur
Conan Doyle sinh ngày 22 tháng 5 năm 1859 tại Edinburgh, trong một gia đình
Ireland, bố là Charles Altamont Doyle và mẹ là Mary Doyle. Ông đã được gửi tới
trường dự bị Dòng Tên Cơ đốc giáo St Marys Hall, Stonyhurst khi lên chín. Sau
đó ông vào Trường Stonyhurst, nhưng khi ông rời trường năm 1875, ông đã chối bỏ
Thiên chúa giáo để trở thành một người theo thuyết bất khả tri.
Từ
1876 tới 1881 ông học ngành y tại Đại học Edinburgh, gồm cả một giai đoạn làm
việc tại thị trấn Aston (nay là một quận của Birmingham). Sau khi học tại trường,
ông trở thành bác sĩ trên một con tàu tới bờ biển Tây Phi, và sau đó vào năm
1882 ông lập một phòng khám tại Plymouth. Ông hoàn thành luận án tiến sĩ về
Tabes Dorsalis năm 1885.
Phòng
khám của ông không thành công lắm: trong khi chờ bệnh nhân, ông bắt đầu viết
truyện. Tiểu thuyết đầu tiên của ông được đăng trên tờ Chambers's Edinburgh
Journal khi ông chưa tới 20 tuổi.
Chỉ
sau khi dời phòng khám về Portsmouth Doyle mới bắt đầu theo đuổi văn học một
cách đúng nghĩa hơn. Tác phẩm đáng chú ý đầu tiên của ông là A Study in Scarlet
(Một cuộc nghiên cứu về Màu đỏ hay "Chiếc nhẫn tình cờ"), xuất hiện
trong cuốn Beeton's Christmas Annual năm 1887 và là lần xuất hiện đầu tiên của
nhân vật Sherlock Holmes, người được lấy hình mẫu một phần theo cựu giáo sư đại
học của Conan Doyle là Joseph Bell. Ngạc nhiên, Rudyard Kipling đã chúc mừng
thành công của Conan Doyle, và hỏi "Ông có thể trở thành bạn tôi không,
Bác sĩ Joe?". Tuy nhiên, Sherlock Holmes được phỏng theo nhân vật C.
Auguste Dupin của Edgar Allan Poe nhiều hơn. Khi sống tại Southsea ông đã giúp
thành lập Portsmouth AFC, câu lạc bộ bóng đá đầu tiên của thành phố. Một chuyện
hoang đường thường thấy cho rằng Conan Doyle đã chơi tại Portsmouth F.C. với tư
cách thủ môn số 1; tuy nhiên, Conan Doyle đã chơi cho một câu lạc bộ nghiệp dư
giải tán năm 1894 và không có liên hệ với Portsmouth F.C. ngày nay vốn chỉ được
thành lập vào năm 1898 (thủ môn đầu tiên của đội bóng chuyên nghiệp là Matt
Reilly).
Năm
1885 ông cưới Louisa (hay Louise) Hawkins, được gọi là "Touie", người
bị bệnh lao và cuối cùng mất năm 1906. Ông cưới Jean Leckie năm 1907, người ông
gặp lần đầu và yêu trong cùng năm 1897 nhưng vẫn duy trì quan hệ thuần khiết với
bà vì chung thuỷ với người vợ đầu tiên. Conan Doyle có năm con, hai người với vợ
đầu (Mary và Kingsley), và ba người với vợ sau (Jean, Denis và Adrian).
Tượng Arthur Conan Doyle
Crowborough
Năm
1890 Conan Doyle học về mắt tại Viên; ông tới London năm 1891 để lập một phòng
khám nhãn khoa. Ông đã viết trong tiểu sử của mình rằng không một bệnh nhân nào
tới phòng khám của ông. Điều này giúp ông có nhiều thời gian hơn trong viết
lách và vào tháng 11 năm 1891 ông đã viết cho mẹ: "Con nghĩ tới việc giết
Holmes... và giải quyết hắn ta vĩnh viễn. Hắn khiến đầu óc con không thể suy
nghĩ được." Mẹ ông đã trả lời "Con có thể làm điều con cho là đúng,
nhưng độc giả sẽ không dễ dàng đồng ý đâu." Tháng 12 năm 1893, ông đã làm
việc đó để có thể dành nhiều thời gian cho những công việc "quan trọng"
hơn (tức là những tiểu thuyết lịch sử).
Holmes
và Moriarty dường như đã cùng nhau rơi xuống một thác nước và chết trong chuyện
"Vấn đề Cuối cùng" (The Final Problem). Những lời kêu gọi của công
chúng khiến ông phải đưa nhân vật trở lại; Conan Doyle quay lại với chuyện The
Adventure of the Empty House (Cuộc Phiêu lưu của Căn nhà Hoang), với lời giải
thích rằng chỉ Moriarty rơi xuống thác, nhưng, bởi vì Holmes còn có nhiều kẻ
thù nguy hiểm khác, anh ta phải thu xếp một cái "chết" giả. Holmes cuối
cùng xuất hiện trong tổng cộng 56 truyện ngắn và bốn tiểu thuyết của Conan
Doyle (từ đó anh ta cũng xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn của
các tác giả khác).
Sau
Chiến tranh Boer tại Nam Phi đầu thế kỷ 20 và sự lên án của thế giới với cách
hành xử của Vương quốc Anh, Conan Doyle đã viết một cuốn sách mỏng với tựa đề
Cuộc chiến tại Nam Phi: Nguyên nhân và Diễn biến bào chữa cho vai trò của Anh
Quốc trong chiến tranh Boer, và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Conan
Doyle tin rằng chính cuốn sách này giúp ông được phong tước hiệp sĩ và được chỉ
định làm Thiếu uý Surrey năm 1902. Ông cũng viết một cuốn sách dài hơn The
Great Boer War (Cuộc chiến tranh Boer vĩ đại) năm 1900. Trong những năm đầu thế
kỷ 20 Sir Arthur đã hai lần ra tranh cử nghị viện với tư cách thành viên Đảng
Công đoàn Tự do, một lần tại Edinburgh và một lần tại Hawick Burghs, nhưng dù
nhận được số phiếu bầu khá lớn ông vẫn không trúng cử.
Conan
Doyle đã tham gia vào hai chiến dịch kêu gọi cải cách Bang Tự do Congo, do nhà
báo E. D. Morel và nhà ngoại giao Roger Casement lãnh đạo. Ông viết The Crime
of the Congo (Tội ác của Congo) năm 1909, một cuốn sách khá dài trong đó ông tố
cáo những sự khủng khiếp tại Congo. Ông đã trở nên thân thuộc với Morel và
Casement, lấy cảm hứng từ họ để tạo ra hai nhân vật chính cho tiểu thuyết The
Lost World (Thế giới đã mất, 1912).
Ông
cắt đứt quan hệ với cả hai người khi Morel (người thiên tả) trở thành một trong
những lãnh đạo của phong trào hoà bình trong Thế chiến thứ nhất, và khi
Casement thừa nhận phản quốc chống nước Anh trong cuộc Nổi dậy Phục sinh. Conan
Doyle đã thử sức, không thành công để cứu Casement khỏi tội tử hình, cho rằng
ông ta đã trở nên điên và không thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Conan
Doyle cũng là người nhiệt tình ủng hộ công lý, và đã đích thân điều tra hai vụ
việc đã được phán quyết, dẫn tới việc phóng thích hai người đã bị bỏ tù. Vụ đầu
tiên, năm 1906, liên quan tới một luật sư nhút nhát lai Anh-Ấn tên là George
Edalji, người được cho là đã viết những bức thư đe dọa và xẻo các bộ phận động
vật. Cảnh sát tin chắc vào tội lỗi của Edalji, thậm chí khi nhiều vụ cắt xẻo
khác vẫn tiếp tục xảy ra khi người bị tình nghi đã ngồi khám.
Một
phần nhờ kết quả vụ này mà Tòa phúc thẩm Hình sự được thành lập năm 1907, vì thế
Conan Doyle không chỉ giúp George Edalji, công việc của ông đã giúp thành lập một
cách thức sửa chữa những sai lầm khác của công lý. Câu chuyện của Conan Doyle
và Edalji đã được kể lại dưới hình thức văn học trong tiểu thuyết của Arthur
& George năm 2005.
Vụ
thứ hai, liên quan tới Oscar Slater, một người Đức gốc Do Thái và là người điều
hành sòng bạc bị cho là đã dùng dùi cui đánh một phụ nữ 82 tuổi tại Glasgow năm
1908, vụ này đã lôi cuốn sự tò mò của Conan Doyle vì những mâu thuẫn trong quá
trình khởi tố và cảm giác chung của mọi người cho rằng Slater đã bị cài bẫy.
Sau
cái chết của vợ là Louisa năm 1906, và cái chết của con trai Kingsley, anh/em
trai, hai người anh/em họ, và hai người cháu gái trong Thế chiến thứ nhất,
Conan Doyle rơi vào tình trạng suy nhược. Ông tìm sự an ủi trong thuyết duy
linh và cái gọi là bằng chứng khoa học về sự tồn tại của thế giới bên kia.
Conan
Doyle trở nên quan tâm tới Thuyết duy linh tới mức ông đã viết một tiểu thuyết
với nhân vật Giáo sư Challenger về chủ đề này, tiểu thuyết Vùng đất bí ẩn. Một
trong những điều kỳ quặc ở giai đoạn này trong cuộc đời ông là cuốn sách The
Coming of the Fairies (1921). Rõ ràng ông đã hoàn toàn tin vào sự có thật của
những bức ảnh tiên Cottingley, và ông đã in lại chúng trong cuốn sách của mình,
cùng với các giả thuyết và tự nhiên và sự tồn tại của những nàng tiên cũng như
những linh hồn. Trong cuốn sách Lịch sử Thuyết duy linh (1926) Conan Doyle đã đề
cao những hiện tượng tâm linh và sự hiện thực hóa linh hồn do Eusapia Palladino
và Mina "Margery" Crandon tạo ra, dựa trên những cuộc nghiên cứu các
nhà khoa học lừa bịp và những thày phù thủy mong muốn gặp những hiện tượng tâm
linh và từ chối lắng nghe những nhà khoa học và thày phù thủy có quan điểm thận
trọng hơn.
Sự
chú tâm của ông trên chủ đề này là một trong những nguyên nhân khiến một truyện
ngắn trong tập truyện, Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes của ông đã bị cấm
tại Liên bang Xô viết năm 1929 vì bị cho rằng tuyên truyền thuyết thần bị. Lệnh
cấm này sau đó đã được dỡ bỏ. Diễn viên Nga Vasily Livanov sau này đã nhận được
một Đề nghị từ Đế chế Anh để đóng vai Sherlock Holmes.
Conan
Doyle từng là bạn trong một thời gian với ảo thuật gia Mỹ Harry Houdini, một
gương mặt quan trọng của phong trào duy linh. Dù Houdini nhấn mạnh rằng những
người theo thuyết duy linh sử dụng trò bịp (và liên tục tìm cách lật mặt họ),
Conan Doyle trở nên tin tưởng rằng chính Houdini sở hữu những năng lực siêu
nhiên, một quan điểm đã được thể hiện trong cuốn The Edge of the Unknown của
ông. Houdini rõ ràng không thể thuyết phục Conan Doyle rằng những trò biểu diễn
của ông chỉ đơn giản là những mưu mẹo ảo thuật, dẫn thời một sự hiểu lầm cay đắng
giữa hai người. Doyle hoàn toàn choáng váng khi Houdini lôi ngón cái của mình
ra và thay thế nó[3].
Richard
Milner, một nhà lịch sử khoa học Mỹ, đã trình bày một trường hợp mà Conan Doyle
có thể đã là thủ phạm gây ra trò bịp Piltdown man năm 1912, tạo ra hóa thạch
người giả mạo khiến giới khoa học thế giới sôi sục trong hơn 40 năm. Milner nói
rằng Conan Doyle có động cơ hành động, được cho là để trả thù việc những nhà
khoa học vạch trần những điều tâm linh mà ông tin tưởng, và rằng cuốn Thế giới
đã mất chứa nhiều bằng chứng kiểu mật mã về sự liên quan của ông tới trò bịp
đó.[4].
Cuốn
sách Naked is the Best Disguise năm 1974 của Samuel Rosenberg có mục đích giải
thích tại sao, xuyên suốt các tác phẩm của mình, Conan Doyle để lại các dấu vết
mở liên quan tới những khía cạnh ẩn giấu và bị kìm nén của tình trạng tinh thần
của ông.
Cái chết
Conan
Doyle được tìm thấy đang ôm chặt ngực trong vườn nhà ngày 7 tháng 7 năm 1930.
Ông mất một thời gian ngắn sau đó vì nhồi máu cơ tim ở tuổi 71, và được chôn
trong Vườn Nhà thờ tại Minstead ở New Forest, Hampshire, Anh. Những lời cuối
cùng ông dành cho vợ: "Em thật tuyệt vời." [cần dẫn nguồn]
Undershaw,
ngôi nhà Conan Doyle đã xây gần Hindhead, phía tây London, và sống tại đó ít nhất
một thập kỷ đã trở thành một khách sạn và nhà hàng từ năm 1924 tới tận năm
2004. Sau đó nó được một nhà nhiếp ảnh mua lại, và để trống từ đó bởi những người
hâm mộ Conan Doyle muốn bảo tồn nó.
Một
bức tượng đã được dựng lên để vinh danh Sir Arthur Conan Doyle tại Crowborough
Cross ở Crowborough, East Sussex, Anh, nơi Sir Arthur đã sống 23 năm. Cũng có một
bức tượng Sherlock Holmes tại Picardy Place, Edinburgh, Scotland-gần ngôi nhà
nơi Conan Doyle ra đời.
Các tác phẩm chọn lọc
Các
truyện về Sherlock Holmes
Chiếc
nhẫn tình cờ (1887)
Dấu
bộ tứ (1890)
Những
cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes (1892)
Những
hồi ức về Sherlock Holmes (1894)
Con
chó săn của dòng họ Baskervilles (1902)
Sherlock
Holmes trở về (1904)
Thung
lũng khủng khiếp (1914)
Cung
đàn sau cuối (1917)
Tàng
thư của Sherlock Holmes (1927)
Các
truyện về Giáo sư Challenger [sửa]
The
Lost World (1912)
The
Poison Belt (1913)
The
Land of Mists (1926)
The
Disintegration Machine (1927)
When
the World Screamed (1928)
Các
tiểu thuyết lịch sử [sửa]
The
White Company (1891)
Micah
Clarke (1888)
The
Great Shadow (1892)
The
Refugees (publ. 1893, written 1892)
Rodney
Stone (1896)
Uncle
Bernac (1897)
Sir
Nigel (1906)
Các tác phẩm khác
"J.
Habakuk Jephson's Statement" (1883), một câu chuyện về số phận con tàu
Mary Celeste
Mystery
of Cloomber (1889)
The
Captain of the Polestar, and other tales (1890)
The
Doings Of Raffles Haw (1891)
Beyond
the City (1892)
Round
The Red Lamp (1894)
The
Parasite (1894)
The
Stark Munro Letters (1895)
Songs
of Action (1898)
The
Tragedy of The Korosko (1898)
A
Duet (1899)
The
Great Boer War (1900)
The
Exploits of Brigadier Gerard (1903)
Through
the Magic Door (1907)
The
Crime of the Congo (1909)
The
New Revelation (1918)
The
Vital Message (1919)
Tales
of Terror & Mystery (1923)
The
History of Spiritualism (1926)
The
Maracot Deep (1929)
17 tháng 5 2013
Henri Barbusse (1873 - 1935) nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa, chiến sĩ hòa bình Pháp.
Tiểu sử:
Henri Barbusse sinh ngày 17-5-1873 tại
Asnières, quận Seine, cha là nhà báo, viết kịch, mẹ người Anh. Sau khi học xong
trung học năm 1889, và trình bày luận án triết học tại Sorbonne, ông cống hiến
đời mình cho sự nghiệp văn học và sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới.
Đầu tiên, ông sáng tác thơ, tập Những người phụ
nữ khóc than (1895) in dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn bi quan và biểu hiện những
khát vọng, lý tưởng mơ hồ. Sau đó, Barbusse hoạt động báo chí, viết truyện ngắn
trên báo Thế giới và phê bình văn học trên những tạp chí lớn. Năm 1903, ông cho
xuất bản tiểu thuyết Những người nài van, tượng trưng cho nhân loại đau khổ, cầu
xin hạnh phúc trên trời mà dưới trần thế không thể có được. Tiếp đó, tiểu thuyết
thứ hai Địa ngục (1908) ra đời, còn có tiêu đề "Tiếng kêu, tiếng kêu khủng
khiếp của sự thật".
Năm 1914, thế chiến lần I bùng nổ, tuy đã 41 tuổi
và sức yếu, Barbusse vẫn tham gia quân đội, sống ngoài mặt trận gần 3 năm, và
viết nên cuốn tiểu thuyết lớn Khói lửa, Nhật ký một tiểu đội (1916), tố cáo,
lên án đanh thép chiến tranh đế quốc phi nghĩa và khẳng định tương lai sẽ thuộc
về những "người nô lệ". Tác phẩm được trao tặng giải thưởng Goncourt
cùng năm. Sau chiến tranh, Barbusse tận tụy chiến đấu cho sự nghiệp hòa bình và
sự nghiệp giải phóng nhân loại. Đây cũng là thời kỳ chín muồi trong tư tưởng và
sáng tác của nhà văn. Năm 1919, tiểu thuyết Ánh sáng của ông được xuất bản. Ông
tham gia tổ chức Hội cựu chiến binh, nhóm "Ánh sáng" tập hợp các nhà
văn trên thế giới đấu tranh chống chiến tranh đế quốc.
Năm 1923, Barbusse gia nhập Đảng Cộng sản Pháp,
đây là một sự kiện có ảnh hưởng lớn trong giới trí thức Pháp. Năm 1925, ông đấu
tranh chống cuộc khủng bố trắng của bọn phản động ở Balkan. Trở về Pháp, ông viết
Xiềng xích, tố cáo tội ác của chúng. Năm 1927, ông sang thăm Liên Xô, viết sách
ca ngợi đất nước Xô-viết và nhà văn Gorki. Ông còn là tác giả của một số tiểu
luận như Lời một chiến sĩ (1920), Ánh sáng trong vực thẳm (1921) và tác phẩm
nghiên cứu phê bình Zola (1932). Những năm cuối đời, ông đấu tranh chống chủ
nghĩa phát-xít.
Barbusse mất ngày 30-8-1935 tại Mátxcơva trong
một chuyến đi thăm Liên Xô, thọ 62 tuổi. Ngày 3 tháng 9 cùng năm, linh cữu ông
được đưa về Pháp an táng.
Tác phẩm:
1908 – L'enfer (tiểu thuyết)
1916 – Le feu (tiểu thuyết)
1921 – Le couteau entre les dents (tiểu thuyết)
1923 – Esperantista Laboristo (bài báo)
1930 – Manifeste aux intellectuels (tiểu thuyết)
1936 – Staline: Un monde nouveau vu à travers
un homme (tiểu sử)
ĐỌC NHIỀU
-
[KINH SÁCH – MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH | KỲ 7] “Sách là người bạn trung thành và yên tĩnh nhất, chúng là những nhà cố vẫn dễ tiếp cận và khôn ng...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
Phạm Công Tắc – tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những nhà lãnh đạo hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài Chân dung Danh Nh...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Albert Einstein – Nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Ein...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Võ Quốc Thắng – Doanh nhân, Nhà sáng lập Công ty Cổ phần Đồng Tâm Võ Quốc Thắng (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1967) là đại biểu Quốc hội Việ...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CÔNG CHÚA
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PLATON
- S
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- THÁI LAN
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia