Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN. Hiển thị tất cả bài đăng
28 tháng 2 2020
Sir
John Tenniel - Danh hoạ nổi tiếng người Anh cách đây 2 thế kỷ
Sir John Tenniel (28/2/1820 – 25/2/1914) là một họa
sĩ biếm họa người Anh và họa sĩ truyện tranh chính trị nổi bật trong nửa sau của
thế kỷ 19 và được phong tước hiệp sĩ vì những thành tựu nghệ thuật của mình vào
năm 1893.
Tenniel được nhớ đặc biệt là khi vẽ tranh biếm họa
chính trị chủ yếu cho tạp chí Punch trong hơn 50 năm, và cho hình minh họa của
mình để Lewis Carroll 's Adventures của Alice in Wonderland (1865) và Qua
Nhìn-Glass, và những gì Alice tìm thấy ở đó (1871).
Sir John Tenniel - Khiếm khuyết tạo ra tạo ra đột phá nghệ thuật
Sir John Tenniel được sinh ra vào
ngày này cách đây 2 thế kỷ ở Bayswater , Tây London, đến John Baptist Tenniel,
một bậc thầy về đấu kiếm và khiêu vũ của dòng dõi Huguenot, và Eliza Maria
Tenniel. Gia đình John Tenniel có năm anh chị em.
Sir John Tenniel là một người trầm tính và sống
nội tâm, cả khi còn là một cậu bé và một người trưởng thành. Ông bằng lòng đứng
vững khỏi ánh đèn sân khấu và dường như không bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh
hay thay đổi.
Sir John Tenniel với chân dung tự hoạ năm 1889. Ảnh: Wikipedia
Nhà viết tiểu sử của ông Rodney Engen đã
viết rằng "cuộc đời và sự nghiệp của Tenniel là của một người đàn ông tối
thượng bên ngoài, sống trên bờ vực của sự tôn trọng".
Vào năm 1840, Tenniel trong khi luyện tập đấu
kiếm với cha mình, đã nhận được một vết thương nghiêm trọng từ lưỡi kiếm của
cha mình. Trong những năm sau đó, Tenniel dần mất đi thị lực ở mắt phải; Ông đã
không bao giờ nói với cha về mức độ nghiêm trọng của vết thương, vì không muốn
làm cha mình buồn thêm.
Mặc dù có xu hướng nghệ thuật hiện đại, Tenniel
đã được biết đến và đánh giá cao như một người hài hước và sự đồng hành ban đầu
của ông với Charles Keene đã thúc đẩy và phát triển tài năng của ông về biếm
họa học thuật.
Sau những năm 1850, phong cách của Tenniel đã
được hiện đại hóa để kết hợp nhiều chi tiết hơn trong nền và trong các hình.
Việc đưa vào các chi tiết nền đã sửa chữa phần dàn dựng tiếng Đức yếu trước đây
của ông.
Hình minh họa được thiết kế chính xác hơn của
Tenniel mô tả những khoảnh khắc cụ thể về thời gian, địa phương và từng nhân
vật thay vì chỉ là những cảnh tổng quát.
Ngoài sự thay đổi về tính đặc thù của nền tảng,
Tenniel còn phát triển mối quan tâm mới về các kiểu người, biểu cảm và cách thể
hiện cá nhân, một cái gì đó sẽ mang trong tranh minh họa về Wonderland của
Tenniel.
Được nhiều người gọi là sân khấu, đặc trưng của
phong cách Tenniel này có lẽ xuất phát từ mối quan tâm trước đây của ông về
biếm họa. Trong những năm đầu tiên của Tenniel trên Punch , anh đã phát triển
mối quan tâm của nghệ sĩ biếm họa này về sự độc đáo của con người và vạn vật,
gần như mang lại tính cách giống con người cho các vật thể trong môi trường.
Một sự thay đổi trong phong cách là những đường
bóng mờ của ông ấy. Chúng chuyển đổi từ các đường ngang cơ học sang nở mạnh
bằng tay, tăng cường đáng kể các khu vực tối hơn.
Sir John
Tenniel – Tác giả của trang tường ở Cung điện Westminster
Tác phẩm đầu tay trong sự nghiệp của Sir John Tenniel là Samuel
Carter Hall của The Book of British Ballads vào năm 1842. Trong khi tham gia
minh họa cuốn sách đầu tiên của mình, các cuộc thi khác nhau được diễn ra tại
London, như một cách thức mà chính phủ có thể chống lại ngày càng gia tăng của
phong cách Germanic Nazarenes và xu hướng quảng bá của trường nghệ thuật quốc
gia Anh.
Tenniel đã lên kế hoạch tham gia cuộc thi House
of Lords năm 1845 cùng các nghệ sĩ để giành cơ hội thiết kế trang trí tranh
tường của Cung điện Westminster mới.
Tranh sơn dầu của Sir John Tenniel.
Mặc dù bỏ lỡ thời hạn, ông đã gửi một bộ
phim hoạt hình dài 16 feet (4,9 m), An Allegory of Justice, tới một cuộc thi
thiết kế trang trí tranh tường mới ở Cung điện Westminster.
Vì điều này, ông đã nhận được 200 đô la phí bảo
hiểm và một khoản hoa hồng để vẽ một bức bích họa trong Hội trường chờ Thượng
viện (hay Hội trường của các nhà thơ) trong Nhà thờ của các vị lãnh chúa.
John Tenniel vẫn thông qua những hình ảnh châm
biếm, thường cực đoan và đôi khi của thế giới Anh chứng kiến những thay đổi sâu
rộng trong cải cách chính trị và xã hội.
Vào dịp Giáng sinh 1850, ông được mời bởi Đánh
dấu Lemon để điền vào vị trí của họa sĩ truyện tranh chung (với John Leech )
trên punch , sau khi được chọn vào sức mạnh của hình ảnh minh họa gần đây để
Aesop 's Fables.
Ông đã đóng góp bản vẽ đầu tiên của mình trong
bức thư đầu tiên xuất hiện trên p. 224, quyển XIX. Điều này được mang tên
"Lord Jack the Giant Killer" và cho thấy Lord John Russell tấn công
Hồng y Wiseman.
Năm 1861, Tenniel được đề nghị vị trí của John
Leech tại Punch, với tư cách là họa sĩ truyện tranh chính trị, nhưng ông vẫn
duy trì ý thức đứng đắn và kiềm chế trong các vấn đề chính trị và xã hội nóng
bỏng thời đó.
Sir John
Tenniel - cả cuộc đời nghệ thuật để giành cho Punch
Nhiệm vụ của Sir
John Tenniel là theo dõi các lựa chọn có chủ ý của các biên tập viên
ở Punch, người có lẽ đã lấy gợi ý của họ từ The Times và cũng sẽ cảm thấy những
lời đề nghị căng thẳng chính trị từ Nghị viện.
Sự bồn chồn trong các vấn đề của chủ nghĩa cấp
tiến của giai cấp công nhân, lao động, chiến tranh, kinh tế và các chủ đề quốc
gia khác là mục tiêu của Punch , từ đó giải quyết bản chất của các chủ đề của
Tenniel.
Phim hoạt hình của ông vào những năm 1860 đã phổ
biến một bức chân dung của người Ailen như một người phụ nữ, bừa bãi trong sự
thèm ăn của mình và giống như một con đười ươi về đặc điểm khuôn mặt và tư thế.
Ảnh bìa Tạp chí Punch được Sir John Tenniel thiết kế số ra năm 1882.
Nhiều phim hoạt hình chính trị của Tenniel
thể hiện thái độ thù địch mạnh mẽ với chủ nghĩa dân tộc Ailen, với người Fenian
và giải đấu Land được miêu tả là những kẻ vũ phu, giống như vượn, trong khi
"Hibernia" - nhân cách hóa của Ireland - được miêu tả là một cô gái
xinh đẹp, bất lực bị đe dọa bởi những "quái vật" như vậy và chuyển
sang bảo vệ một "chị gái" trong hình dạng của một Britannia mạnh mẽ,
bọc thép .
"Một trận đấu không cân sức", bản vẽ
của ông được xuất bản trong Punch vào ngày 8/10/1881, mô tả một sĩ quan cảnh
sát chiến đấu với một tên tội phạm chỉ với một cây dùi cui để bảo vệ, cố gắng
đưa ra một điểm cho công chúng rằng cần phải thay đổi phương pháp trị an.
Khi được xem xét tách biệt với các minh họa cuốn
sách mà anh đã làm theo thời gian, tác phẩm của Tenniel tại Punch , thể hiện
hàng thập kỷ quan điểm biên tập, thường gây tranh cãi và nhạy cảm về mặt xã
hội, đã được tạo ra để lặp lại tiếng nói của công chúng Anh.
Và Tenniel đã vẽ 2.165 phim hoạt hình cho Punch
một ấn phẩm tự do và hoạt động chính trị, phản ánh tâm trạng của công chúng
Victoria về những thay đổi xã hội tự do; do đó, Tenniel, trong phim hoạt hình
của mình, đại diện cho nhiều năm lương tâm của đa số người Anh.
Tenniel đã đóng góp khoảng 2.300 phim hoạt hình,
vô số bức vẽ nhỏ, nhiều phim hoạt hình hai trang cho Punchman Almanac và các
sản phẩm đặc biệt khác, và 250 thiết kế cho sách Pocket của Punch.
Đến năm 1866, ông có thể "tự chi mười đến
mười lăm đồng tiền vàng cho việc làm lại một phim hoạt hình Punch độc nhất dưới
dạng phác họa bút chì", cùng với mức lương khoảng 800 bảng Anh mỗi năm.
15 tháng 12 2013
Gustave Eiffel - Nhà thiết kế tháp Eiffel
Alexandre Gustave Eiffel (15 tháng 12 năm 1832 – 27
tháng 12 năm 1923; Phát âm tiếng Pháp: [efɛl], tiếng Anh: /ˈaɪfəl/) là một kỹ sư kết cấu, nhà thầu và một nhà
chuyên môn về các kết cấu kim loại người Pháp. Ông nổi tiếng vì đã thiết kế
Tháp Eiffel, xây dựng năm 1887–1889 cho Triển lãm Thế giới năm 1889 tại Paris,
Pháp, và cốt cho Tượng thần Tự do, ở Cảng New York, Hoa Kỳ
Tuổi trẻ
Alexandre Gustave Eiffel sinh tại Dijon , Côte-d'Or, Pháp. Cái tên Gustave Eiffel được
cha ông lấy từ đầu thế kỷ 19 theo nơi sinh của ông tại vùng Eifel
Đức (ở Marmagen), bởi người Pháp không thể đánh vần được họ của ông,
Bönickhausen. Thời tuổi trẻ, hai luồng ảnh hưởng mạnh nhất tới Gustave Eiffel đều là
những nhà hoá học thành công, hai người chú Jean-Baptiste Mollerat và Michel
Perret. Cả hai đều bỏ rất nhiều thời gian chơi với Gustave Eiffel, nhồi nhét vào đầu
ông mọi thứ từ các kiến thức hoá học tới khai mỏ tới tôn giáo và triết học. Ở
trường học, Gustave Eiffel rất thông minh, nhưng không chăm chỉ lắm. Khi theo học trung
học tại Lycée Royal, Gustave Eiffel thấy chán ngán và cảm thấy rằng các buổi học là một
sự phí phạm thời gian. Mãi tới hai năm học cuối cùng Gustave Eiffel mới tìm được niềm cảm hứng của mình, không phải trong kỹ thuật, mà là trong lịch sử và văn học.
Các thói quen học tập của Gustave Eiffel dần cải thiện và ông tốt nghiệp với bằng cấp
cả về khoa học và nhân văn. Gustave Eiffel đăng ký theo học tại một trường cao đẳng ở Sainte Barbe
College tại Paris , để chuẩn bị cho các kỳ thi đầu vào khó
khăn tại École Polytechnique. École Polytechnique từng, và vẫn là, ngôi trường
nổi tiếng về kỹ thuật ở Pháp. Cuối cùng, Alexandre Gustave Eiffel không được nhận vào École
Polytechnique, nhưng thay vào đó ông theo học tại École Centrale des Arts et
Manufactures ở Paris
nơi ông học hoá học, nhận được bằng cấp tương đương Thạc sĩ Khoa học năm 1855.
École Centrale là một trường tư tự do hiện nổi tiếng là một trong các trường kỹ
thuật hàng đầu châu Âu. Công việc kinh doanh than của mẹ ông mang lại nguồn thu
nhập dư dật cho gia đình và tạo điều kiện cho Gustave có được nền giáo dục đại
học. Năm 1855 cũng là năm Paris
đứng ra tổ chức Hội chợ Thế giới đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp, người chú của Gustave Eiffel đề nghị ông làm việc tại một xưởng dấm ở Dijon , Pháp. Tuy nhiên, một cuộc tranh cãi
gia đình đã không chấp nhận cơ hội đó, và Gustave Eiffel nhanh chóng thành nhân viên
mới tại một công ty thiết kế cầu đường sắt.
Charles Nepveu trao cho Gustave Eiffel công việc đầu tiên với
tư cách một trong nhiều quản lý dự án của một cầu đường sắt nằm ở Bordeaux , Pháp. Trong quá
trình xây dựng, các kỹ sư lớn tuổi ở dự án dần thôi việc, và Gustave Eiffel cuối cùng
đảm nhiệm cả dự án. Neveu theo dõi công việc của Gustave Eiffel tại hiện trường và tiếp
tục đặt Gustave Eiffel vào các công việc khác liên quan tới quản lý dự án các cầu và
kết cấu đường sắt. Trong những dự án này, Gustave Eiffel được biết các kỹ sư khác thời
ấy, và ông được ghi nhớ với công việc của mình và được mời làm việc tại các dự
án khác. Nepveu có ảnh hưởng mạnh tới Gustave Eiffel giúp ông trở nên thành công hơn
với những dự án trong tương lai.
Sự nghiệp
Eiffel et Cie., công ty tư vấn và xây dựng của
Eiffel, với sự hỗ trợ của kỹ sư người Bỉ Téophile Seyrig, đã tham gia vào gói
thầu quốc tế xây dựng một cây cầu đường sắt dài 160m qua sông Douro, giữa
Oporto và Vila Nova de Gaia, Bồ Đào Nha. Đề xuất của ông giành chiến thắng bởi
nó đẹp, có cấu trúc trong sáng, giá thành thấp nhất, và nó tích hợp việc sử
dụng phương pháp các lực, khi ấy là một kỹ thuật mới trong thiết kế cấu trúc do
Maxwell phát triển năm 1864. Ponte Maria Pia là một vòng cung khớp đôi đỡ một
đường sắt đơn qua các cột tăng cường cho toàn bộ cây cầu. Việc xây dựng được
tiến hành nhanh chóng và cây cầu hoàn thành trong chưa tới hai năm (5 tháng 1
năm 1876 tới mùng 4 tháng 11 năm 1877). Nó được Vua D. Luís và Nữ hoàng D.
Maria Pia khai trương, và cây cầu được đặt theo tên nữ hoàng. Cây cầu được sử
dụng cho tới tận năm 1991 (114 năm), khi nó được thay thế bởi Cầu S. John, được
thiết kế bởi kỹ sư Edgar Cardoso. Eiffel đã xây dựng một số cầu đường sắt thép
đúc tại Massif Central , như các cầu cạn tại
Rouzat và Bouble. Chúng vẫn được dùng cho các chuyến tàu địa phương và được xây
dựng cuối những năm 1860.
Gustave Eiffel cũng thiết kế La Ruche tại Paris , Pháp. Cây cầu này,
giống như Tháp Eiffel, trở thành một địa điểm thắng cảnh của thành phố. Đây là
một kết cấu tròn ba tầng trông giống như một tổ ong lớn và được tạo ra như một
kết cấu tạm thời sử dụng như một nhà vòm rượu tại Đại Triển lãm năm 1900. La
Ruche trong tiếng Pháp có nghĩa "tổ ong". Ông cũng xây dựng cầu cạn
Garabit, một cầu đường sắt gần Ruynes en Margeride tại Cantal département. Ở
Châu Mỹ, Eiffel thiết kế ga đường sắt trung tâm tại Santiago de Chile (1897) và
Mona Island Light nằm gần Puerto Rico . Cây đèn
biển được xây dựng khoảng năm 1900 bởi Hoa Kỳ nước đã chiếm được hòn đảo sau
khi chấm dứt Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Nó ngừng hoạt động năm 1976.
Năm 1887, Gustave Eiffel tham gia vào nỗ lực của Pháp xây
dựng một Kênh Panama .
Công ty Kênh Panama Pháp, dưới sự lãnh đạo của Ferdinand de Lesseps, đã tìm
cách xây dựng một con kênh ngang mực nước biển, nhưng cuối cùng nhận ra rằng
điều này là không thể thực hiện. Một con kênh nâng, với các cống đã được lựa
chọn làm thiết kế mới, và Eiffel được giao việc thiết kế và xây dựng các cống.
Tuy nhiên, toàn bộ dự án kênh gặp vấn đề quản lý kém nghiêm trọng, và cuối cùng
sụp đổ với thiệt hại to lớn. Danh tiếng của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng nghiêm trọng
khi ông bị dính líu vào các scandal tài chính liên quan tới de Lesseps và các
doanh nghiệp hỗ trợ dự án. Chính Gustave Eiffel không liên quan tới các vấn đề tài
chính, và sau này phán quyết có tội với ông đã được đảo ngược. Tuy nhiên,
công việc của ông không bao giờ được thực hiện, bởi nỗ lực xây dựng kênh sau
này của người Mỹ sử dụng các thiết kế cống mới (xem Lịch sử Kênh Panama).
Sau khi nghỉ hưu ông nghiên cứu và phát triển những ý
tưởng mới thông qua việc sử dụng thực tế Tháp Eiffel. Tháp cho phép ông thực
hiện những tiến bộ trong khí động học, khí tượng học, và truyền phát radio. Ông
đã xây dựng một đường hầm gió tại đáy tháp để nghiên cứu khí động học, đặt các
thiết bị khí tượng ở nhiều vị trí trên tháp, và đề nghị quân đội lắp đặt thiết
bị radio trên đỉnh tháp. Trong những năm tiếp theo tháp tiếp tục được sử dụng
cho truyền phát radio và cuối cùng được dùng để phát sóng vô tuyến.
Gustave Eiffel mất này 27 tháng 12 năm 1923 trong ngôi nhà
của ông tại Rue Rabelais ở Paris, Pháp. Ông được chôn cất tại Cimetière de
Levallois-Perret.
Gustave Eiffel cũng đã từng tới nhiều nơi như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Philippines, vân vân, thiết kế các toà nhà và các cấu trúc
khác trong những chuyến thăm của mình. Ông trở nên rất nổi tiếng trên thế giới
về ngọn tháp chúng ta đều biết ngày nay với cái tên Tháp Eiffel (đã đề cập ở
trên).
Dấu ấn
Bức tranh năm 1886 của Edward Moran, The Statue of
Liberty Enlightening the World (Tượng Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới), thể
hiện lễ khai trương Tượng thần Tự do.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp đóng một vai trò quan
trọng trong cuộc đời của Gustave Eiffel. Mọi người đi vòng quanh thế giới, các
kỹ thuật và vật liệu mới xuất hiện, và các quốc gia tiến lên công nghiệp hoá.
Đa số các công việc của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng bởi một trong những điều kiện do
cuộc Cách mạng Công nghiệp tạo ra.
Điều kiện ảnh hưởng mạnh nhất tới công việc của Gustave Eiffel là giao thông. Mọi người trên khắp thế giới có nhu cầu đi lại an toàn
qua các con sông và cần tới những cây cầu. Việc xây dựng những cây cầu đó đã
khiến Eiffel có được danh tiếng là một kỹ sư, cho phép ông theo đuổi những dự
án lớn hơn và khó khăn hơn sau này. Những cây cầu ông thiết kế được xây dựng
trên khắp thế giới. Những cây cầu cho phép việc đi lại và thương mại diễn ra dễ
dàng và nhanh chóng hơn tại những địa điểm chúng được xây dựng. Nhiều cây cầu
của Eiffel không đòi hỏi phải có thợ tay nghề cao để lắp ráp, khiến chúng trở
thành một lựa chọn rất kinh tế.
Tháp Eiffel có một dấu ấn lớn tại Pháp. Tháp là điểm
nhấn của Triển lãm Thế giới (1889) và thu hút hàng triệu người tới Paris . Gần hai triệu
người tới thăm Tháp Eiffel chỉ riêng trong năm 1889. Tháp nhanh chóng trở thành
một điểm thu hút khách du lịch và mang lại những khoản tiền lớn cho nền kinh tế
Pháp. Ban đầu bị coi là một thứ gây chướng mắt (thực tế nó được thiết kế để có
thể được tháo dỡ dễ dàng sau cuộc Triển lãm), tháp nhanh chóng trở thành một
biểu tượng quốc gia của Pháp và mang lại cảm giác tự hào cho người dân sống tại
đó. Năm 1910 Gustave Eiffel đã có một kết luận phi thường trong xác định độ
kháng gió của một đĩa phẳng; Gustave đã dùng Tháp Eiffel làm nơi thí nghiệm.
Tượng thần Tự do là một món quà của Pháp cho Mỹ.
Thiết kế của Eiffel cho cấu trúc bên trong tượng cho phép nó có thể được thực
hiện trong thực tế. Tượng thể hiện tình hữu nghị và sự tôn trọng giữa Pháp và
Mỹ. Tượng thần Tự do nhanh chóng trở thành một biểu tượng quốc gia về tự do tại
Hoa Kỳ và cũng khiến những công dân nước này tự hào. Bức tượng trở thành một
điểm thu hút du khách nổi tiếng và khiến nhiều người tới New York , làm phát triển mạnh nền kinh tế.
Nhiều người Mỹ sống tại Pháp rất hài lòng về món quà dành cho nước mình và để
đáp lễ, đã chế tạo một bức tượng đồng tỷ lệ ¼ ở phía cuối dòng Île aux Cygnes,
1.4 km phía tây nam Tháp Eiffel.
Với tất cả những cơ hội do cuộc Cách mạng Công nghiệp
mang lại, nó cũng đưa tới nhiều thách thức. Bởi Eiffel có cơ hội làm việc tại
nhiều dự án ở những địa điểm khác nhau, các kỹ sư khác cũng có cơ hội tương tự.
Tính cạnh tranh cho các dự án rất cao và danh tiếng của kỹ sư đóng một vai trò
quan trọng trong việc thắng thầu dự án. Quả thực một thách thức khác trong sự
nghiệp của Eiffel là đưa ra các vật liệu xây dựng mới. Bởi các vật liệu xây
dựng mới chưa từng được chứng minh trong các dự án, các kỹ sư thường phải đối
mặt với nguy cơ khi sử dụng chúng. Nhiều cây cầu Eiffel đã xây dựng được làm
bằng thép là vật liệu mà ông đã giúp trở thành tiên phong. Với sự phát triển
của Thế gới Công nghiệp thời kỳ ấy. Một số phát triển của ông gồm: thiết kế một
hệ thống nén thuỷ lực cho phép các công nhân đặt móng cầu sâu hơn dưới nước,
tạo ra các dàn vì kèo và kết cấu khung khoẻ nhưng có trọng lượng nhẹ "kiểu
thanh dầm" có khả năng chống gió mạnh, sử dụng thép rèn cho xây dựng cầu
bởi độ dẻo của nó có thể chống lại gió mạnh, uốn cong các đầu cột để tạo ra các
đáy ổn định hơn, và phát triển "lao" là một cách dễ dàng hơn để di
chuyển các thành phần kết cấu tới vị trí. Sự khéo léo và tài năng nổi bật của Gustave Eiffel cho phép ông thiết kế và xây dựng một số cấu trúc nổi tiếng nhất thế giới.
Từ khóa: Alexandre Gustave Eiffel
03 tháng 10 2013
BÙI HUY ÍCH - danh nhân, danh sĩ người Hà Nội
Bùi
Huy Bích (chữ Hán: 裴輝璧; 1744 - 1818), tự là Hy Thương, hiệu là
Tồn Am và Tồn Ông, là một danh nhân, danh sĩ người Hà Nội, từng giữ chức Tham tụng
(tương đương chức thủ tướng) trong triều đình dưới thời vua Lê – chúa Trịnh.
Tuổi
thơ
Ông
sinh ngày 28 tháng Tám năm Giáp Tý (tức 3 tháng 10 năm 1744), quê làng Định
Công, Hà Nội. Ông là cháu 5 đời của Tiên Quận công Bùi Bỉnh Uyên, cháu 7 đời của
Quảng Quận công Bùi Xương Trạch. Cha ông là Bùi Dụng Tân, hiệu Trúc Viên cư sĩ,
dạy học ở nhà.
Bùi
Huy Bích có 1 chị và 1 em trai. Năm ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất, cha ông mang 3
chị em lên Hải Dương, ở làng An Lâu, huyện Thanh Miện. Trúc Viên dạy học tại
đó.
Thuở
nhỏ Tồn Am thể chất kém, thường đau ốm luôn, bề ngoài có vẻ "lỗ độn"
nhưng trong lại có khiếu thông minh. Không những Bùi Huy Bích chóng học thuộc
sách mà ngay cả với cuộc sống cũng tỏ ra am hiểu.
Khoa cử
Thuở
nhỏ ông học ở nhà, 17 tuổi theo học Nguyễn Bá Trữ. Năm 19 tuổi (1762), đi thi đỗ
ngay hương cống nhưng trượt thi hội vào năm sau (1763). Ông về học tiếp bảng
nhãn Lê Quý Đôn mở tại kinh thành, nhưng bất mãn trước cảnh xã hội nên không
theo tiếp con đường tiến sỹ.
Để
chiều lòng cha, mãi năm ông 25 tuổi (1770) ông đi thi và đỗ thi hội rồi đỗ thi
đình, đỗ Hoàng giáp.
Làm quan
Sau
khi đỗ, ông được bổ dụng làm Hàn lâm viện hiệu lý, lên chức Thị Chế (năm 1771),
rồi được thụ chức Thiêm sai phủ liêu Tri hộ phiên, kiêm chức Đông các Hiệu thư.
Năm
1777, ông vào lĩnh chức Đốc đồng Nghệ An rồi lại phụng sai vào Thuận Hóa tuyên
dụ. Trong thời gian này ông đã có công bình loạn giặc Mường Thai ở miền tây Nghệ
An.
Sau
công trạng đó, năm 1780 ông được thăng lên Hiệp trấn Nghệ An kiêm thụ lĩnh chức
tham chính. Đến năm Tân Sửu (1781), ông được chúa Trịnh Sâm triệu về triều,
trao cho chức Nhập thị Bồi tụng, chức đứng hàng thứ 2 trong phủ chúa sau chức Bồi
tụng, nhưng ông đệ khải văn xin từ chức, lấy cớ là ốm yếu, dù khi đó mới 38 tuổi
và có quan hệ họ hàng với Trịnh Sâm, nhưng bản thân ông không muốn gần gũi với
Trịnh Sâm.
Ông
là người đã đứng ra can gián Trịnh Sâm khi chúa định bỏ con trưởng Trịnh Tông để
lập con nhỏ Trịnh Cán của Tuyên phi Đặng Thị Huệ được sủng ái, nhưng không
thành. Chính vì Trịnh Sâm lập con nhỏ nên đã xảy ra loạn trong triều sau khi
chúa qua đời.
Trịnh
Tông lật đổ Trịnh Cán lên ngôi, cách chức Tham tụng của Phan Lê Phiên (vì Phiên
cùng phe với mẹ con Trịnh Cán) và mời Bùi Huy Bích ra làm Hành Tham tụng, hy vọng
ông có thể cứu vãn tình thế do loạn kiêu binh gây ra. Sau xảy ra nhiều chuyện,
lại do ngờ vực, ông từ quan về dưỡng bệnh tại phường Bích Câu, Hà Nội, gần đền
Tú Uyên.
Năm
1786, quân Tây Sơn lấy danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh" kéo ra bắc, Trịnh
Tông điều ông ra mặt trận làm chức đốc chiến. Ông định đến đò Thuý Ái để phối hợp
với Hoàng Phùng Cơ chỉ huy thuỷ quân, nhưng chưa đến nơi thì quân Phùng Cơ đã
tan vỡ, quân Tây Sơn thần tốc tiến vào Thăng Long.
Tây
Sơn diệt Trịnh không lâu thì Lê Hiển Tông mất, cháu là Lê Chiêu Thống lên thay,
Nguyễn Huệ rút quân về nam. Chiêu Thống mời Bùi Huy Bích ra giúp nhưng ông xin
từ về quê nhà.
Khi
Nguyễn Huệ lên ngôi vua và đánh tan quân Thanh (1789) có mời các danh thần nhà
Hậu Lê ra giúp nước nhưng ông không hợp tác. Đến đời Nguyễn Ánh, ông được trọng
đãi nhưng ông vẫn xin được sống an nhàn ở quê cho đến khi qua đời ngày 25 tháng
5 năm 1818, thọ 75 tuổi.
Tưởng nhớ
Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, tên của Bùi Huy Bích được chính quyền Hà Nội đặt
cho phố Sinh Từ (thời Pháp thuộc). Đến thời tạm chiếm, phố Bùi Huy Bích trở lại
tên cũ là phố Sinh Từ, và đến năm 1964, phố Sinh từ lại được đổi thành phố Nguyễn
Khuyến.
Năm
2012 Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đặt tên đường Bùi Huy Bích cho con đường
từ đường vành đai 3 rẽ vào khu tái định cư X1 Pháp Vân thuộc phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai. Trung tâm hành chính quận Hoàng Mai nằm trên con đường này.
Thơ văn
Bùi
Huy Bích viết nhiều, trong đó thơ của ông để lại ba bộ, tổng cộng 681 bài thơ.
Bích
Câu thi tập, gồm 2 tập là tiền tập và hạ tập.
Nghệ
An thi tập gồm 2 tập
Thoái
hiên thi tập gồm 3 tập.
Về văn có:
Tồn
Am văn cảo
Lữ
trung tạp thuyết
Các
tập văn thơ ông sưu tập và hợp tuyển: ghi chép từ thời Lý Trần đến thời Lê Hiển
Tông:
Hoàng
Việt thi tuyển: gồm 562 bài của 167 tác giả.
Hoàng
Việt văn tuyển: 112 bài, gồm 15 bài phú, 15 bài ký, 9 bài tế, 9 bài minh, 25
bài chiếu chế, 22 bài khải, 11 bài tản văn, 6 bài biểu tấu.
Thơ
văn của ông phần nhiều tự sự về nhân tình thế thái, tự phê phán bản thân bất lực
không làm được gì nhiều giúp dân giúp nước; đồng thời công kích sư sa đoạ của kể
sĩ và quan lại đương thời và phê phán quan điểm lệch lạc của các nhà Nho. Bùi
Huy Bích không đồng nhất quan điểm cho rằng từ thời Sĩ Nhiếp Việt Nam mới có chữ
viết mà ông cho rằng Việt Nam đã có chữ viết trước đó nhiều.
Giai thoại
Khi
Bùi Huy Bích còn nhỏ, ở làng có đám ma. Huy Bích đứng gần người đề chủ[7]. Khi
làm lễ, người đề chủ chuẩn bị viết thì mới phát hiện nghiên mực khô khốc. Liếc
sang thấy cậu bé Bích đứng gần, ông đề chủ hất hàm ra hiệu. Thấy cạnh nghiên có
chén đầy nước, Bùi Huy Bích cầm lấy chén nhưng không đổ cả vào nghiên mà lại nhặt
một thoi vàng hồ, chọc thủng một mặt rồi dùng thoi vàng lấy từng ít nước đổ vào
nghiên.
Thi
lễ xong, ông đề chủ rất khen ngợi cậu bé Bích và mời ngồi cùng vào chiếu rượu
dành riêng cho ông. Ông giảng giải:
Chén
nước đầy mà nghiên mực thì nông. Kẻ xốc nổi sẽ cầm cả chén mà rót và thế thì nước
sẽ tung toé ra, mất trang nghiêm. Kẻ chậm chạp thì chạy đi lấy thìa và như thế
thì nghi lễ bị dở dang. Thoi vàng không phải là thứ múc nước, vậy mà cậu bé biết
biến báo thành ra được việc.
24 tháng 5 2013
Joseph Brodsky - Nhà thơ, nhà văn Mỹ gốc Nga
Joseph
Brodsky (24 tháng 5 năm 1940 - 28 tháng 1 năm 1996), tên trong khai sinh là
Iosif Aleksandrovich Brodsky (tiếng Nga: Иосиф Александрович Бродский), là một
nhà thơ, nhà văn Mỹ gốc Nga đoạt Giải Nobel Văn học năm 1987.
Tiểu sử
Cuộc
đời của nhà thơ sinh tại Leningrad này, ngay từ nhỏ, có những chi tiết thú vị.
Thời thơ ấu Brodsky sống trong một căn hộ nhỏ của ngôi nhà mà trước Cách mạng
tháng Mười Nga đã từng sống hai nhà thơ Nga sau đó cũng ra sống ở nước ngoài:
Dmitry Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Ông cũng học ở trường phổ thông mà ngày
trước Alfred Nobel đã từng học và năm 1987 được trao giải Nobel.
Thuở
nhỏ Brodsky mơ ước trở thành bác sĩ nhưng 15 tuổi đã phải nghỉ học vì mưu sinh.
Sau đó, ông tự học tiếng Anh, tiếng Ba Lan, nghiên cứu truyền thuyết, tôn giáo
và triết học. Ông bắt đầu làm thơ lúc 16 tuổi; khi 17 tuổi ông hoàn thành tập
thơ nổi tiếng Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... (Прощай, позабудь и
не обессудь...) và được công nhận là một nhà thơ, một dịch giả tài năng. Năm
1963 Brodsky bị kết tội "ăn bám xã hội" và gửi đi cải tạo 5 năm ở miền
bắc Nga. Nhờ sự phản đối của các nhà văn trong và ngoài nước hai năm sau ông được
trở về Leningrad. Năm 1972, ông lại bị trục xuất, phải sang Viên, London và cuối
cùng là Hoa Kỳ. Từ đây, Brodsky sáng tác bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh.
Năm
1977, ông nhập quốc tịch Mỹ và làm giáo sư văn học cho trường Cao đẳng Five
College ở Mount Holyoke, bang Massachusetts. Năm 1978, Đại học Yale trao cho J.
Brodsky bằng tiến sĩ văn học danh dự. Năm 1979, ông trở thành thành viên của Viện
Hàn lâm Nghệ thuật - Văn chương Mỹ. Năm 1981, ông được Quỹ John D. và Catherine
T. MacArthur trao tặng giải thưởng cho các tác phẩm thiên tài. Năm 1986, cuốn
tiểu luận về nghệ thuật và chính trị Ít hơn một của ông được giải thưởng của
Nhóm các nhà phê bình sách Quốc gia (Mỹ). Năm 1987, ông nhận giải Nobel của Viện
Hàn lâm Thụy Điển và năm 1991 nhận được giải thưởng của Thư viện Quốc hội Mỹ.
Brodsky
sáng tạo nên một thế giới thơ ca độc đáo được thể hiện bằng những quan niệm của
nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà phê bình coi ông "là người tổng kết thơ
ca thế kỷ 20". Joseph Brodsky qua đời ngày 28/1/1996 tại nhà riêng vì căn bệnh
nhồi máu cơ tim.
Lời khai trước tòa của
Brodsky
Dưới
đây là những câu hỏi và lời khai của Brodsky trước Tòa về tội “ăn bám”. Những lời
này được thư ký của phiên tòa ghi lại và sau đó được phổ biến trong những bài
viết in ngoài luồng (samizdat).
Tòa:
Thâm niên lao động của anh là bao nhiêu?
Brodsky:
Khoảng chừng…
Tòa:
Chúng tôi không cần “khoảng chừng”!
Brodsky:
Năm năm.
Tòa:
Anh làm việc ở đâu?
Brodsky:
Ở nhà máy. Ở các nhóm địa chất…
Tòa:
Anh làm ở nhà máy bao nhiêu lâu?
Brodsky:
Một năm.
Tòa:
Làm nghề gì?
Brodsky:
Thợ phay.
Tòa:
Thế nói chung nghề chuyên môn của anh là gì?
Brodsky:
Nhà thơ, nhà thơ – dịch giả.
Tòa:
Ai thừa nhận anh là nhà thơ? Ai xếp anh vào hàng ngũ các nhà thơ?
Brodsky:
Không ai cả. Thế ai xếp tôi vào giống người?
Tòa:
Thế anh có học cái đó không?
Brodsky:
Cái gì?
Tòa:
Cái nghề làm thơ ấy? Anh đã không cố gắng học đại học… nơi người ta dạy…
Brodsky:
Tôi không nghĩ… tôi không nghĩ là học vấn mang lại điều này.
Tòa:
Thế thì cái gì?
Brodsky:
Tôi nghĩ… đó là (thất vọng) do trời phú…
Tòa:
Anh có yêu cầu gì với Tòa không?
Brodsky:
Tôi muốn được biết tôi bị bắt vì tội gì?
Tòa:
Đấy là câu hỏi chứ không phải yêu cầu.
Brodsky:
Thế thì tôi chả có yêu cầu gì cả.
Ngày
13 tháng 3 năm 1964 Brosky bị kết án vì tội “ăn bám” và chịu hình phạt cao nhất
là 5 năm lao động cải tạo ở làng Norenskaya, tỉnh Arkhangelsk. Trong một bài phỏng
vấn, Brodsky gọi đấy là thời kỳ hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mình. Chính
thời gian này ông đi sâu tìm hiểu về thơ ca Anh.
Tác phẩm
Прощай,
позабудь и не обессудь... (Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau...,
1957), thơ
Большая
элегия Джону Донну (Khúc bi ca lớn gửi Donne John, 1963)
Стихотворения
и поэмы (Thơ và trường ca, 1965), thơ
Остановка
в пустыне (Trạm dừng trong sa mạc, 1970), thơ
Конец
прекрасной эпохи. Стихотворения 1964-71 (Kết thúc thời tốt đẹp. Thơ những năm
1964-71, 1977), thơ
Часть
речи. Стихотворения 1972-76 (Một phần của lời nói. Thơ những năm 1972-76,
1980), thơ và bài viết
Римские
элегии (Những khúc bi ca La Mã, 1982), thơ
Новые
стансы к Августе (Những bài tứ tuyệt mới gửi Augusta, 1983), thơ
Мрамор
(Сẩm thạch, 1984), kịch
Меньше
одиницы (Ít hơn một, 1986), tiểu luận
History
of the twentieth century (Lịch sử thế kỉ hai mươi, 1986), thơ
Урания
(Urania, 1988), thơ
Заметки
папоротника (Bút kí dương xỉ, 1990)
На
околицах Атлантиды (Trên các nẻo Atlantida, 1992)
Набережная
неисцелимых (Bờ sông của những kẻ vô phương cứu chữa, 1992), thơ
Watermark
(Hoa văn mờ trên giấy, 1992), tiểu luận
Скорбь
и разум (Nỗi đau và lí trí, 1995), tiểu luận
Một số bài thơ
Vĩnh biệt, hãy quên, đừng
trách cứ gì nhau...
Vĩnh
biệt
Hãy
quên
Đừng
trách cứ gì nhau.
Còn
những bức thư
Em
hãy đốt
Như
cầu.
Con
đường của em
Sẽ
trở thành can đảm
Con
đường thẳng
Và
sẽ giản đơn.
Rồi
đây trong màn sương
Sẽ
cháy lên cho em
Một
vì sao ngời sáng
Và
một niềm hy vọng
Của
bàn tay sưởi ấm
Bên
bếp lửa nhà em.
Rồi
sẽ có bão tuyết, mưa giông
Và
tiếng gào điên cuồng của lửa
Sẽ
có những thành công rực rỡ
Phía
trước đợi chờ em
Sẽ
tuyệt vời và mạnh mẽ vô cùng
Một
trận đánh
Sẽ
vang lên trong lồng ngực của em.
Anh
hạnh phúc và xin chúc mừng
Cho
người, mà có thể
Sẽ
đi cùng em
Trên
một con đường.
Hai năm sau
Vâng,
ta chẳng già hơn chẳng điếc hơn.
Ta
vẫn nói những lời như ngày trước.
Như
ngày trước, áo màu đen vẫn khoác
Những
phụ nữ kia vẫn ít cảm tình.
Ta
bây giờ vào vai không thường xuyên
Trong
những bậc dốc nhà hát cô đơn
Những
ngọn đèn trên đầu ta vẫn thắp
Như
tiếng hò reo, hoan hỉ của đêm.
Ta
sống bằng quá khứ, như bây giờ
Với
tương lai, thời của ta chẳng giống
Ta
không ngủ, người ngủ ta quên lãng
Và
ta vẫn làm những việc như xưa.
Hãy
giữ gìn vẻ vui nhộn ngây thơ
Trong
tuần hoàn bóng đêm và ánh sáng
Những
người vĩ đại cho vinh quang, cay đắng
Những
kẻ nhân từ cho thế kỷ hư vô.
Mikhail Aleksandrovich Sholokhov - Nhà văn Liên Xô nổi tiếng
Mikhail
Aleksandrovich Sholokhov (phiên âm tiếng Việt: Mi-kha-in A-lếch-xan-đrô-vích
Sô-lô-khốp; tiếng Nga: Михаил Александрович Шолохов) (sinh ngày 24 tháng 5, lịch
cũ ngày 11 tháng 5, năm 1905, mất ngày 21 tháng 2 năm 1984) là một nhà văn Liên
Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965.
Mikhail
Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm,
tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của
Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng
Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Tiểu sử
Mikhail
Sholokhov sinh năm 1905 trong một gia đình người Cozak ở Kamenskaya thuộc Đế quốc
Nga. Bố của ông là một nông dân Cozak, còn mẹ ông xuất thân từ một gia đình
nông dân người Ukraina đã từng có một đời chồng. Sholokhov đi học tại các trường
phổ thông ở Kargin, Moskva, Boguchar và Veshenskaya; đến năm 1918 thì tham gia
Hồng quân chiến đấu trong Nội chiến Nga. Khi đó Sholokhov mới 13 tuổi
Sự
nghiệp
Trước
Thế chiến thứ hai
Sholokhov bắt đầu sáng tác ở tuổi 17. Ông cho
ra đời tác phẩm đầu tiên, truyện ngắn Cái bớt năm 19 tuổi. Năm 1922 Sholokhov
chuyển tới thủ đô Moskva với hy vọng trở thành một nhà báo. Trong thời gian đầu
ở thủ đô, ông phải kiếm sống bằng những công việc chân tay như công nhân bốc
vác, thợ xây và nhân viên kế toán từ năm 1922 đến 1924 trong khi vẫn cố gắng
tham gia các lớp học ngắn hạn dành cho các nhà văn trẻ.
Năm 1924 Sholokhov trở về Veshenskaya và bắt
đầu tập trung hoàn toàn vào việc sáng tác. Cùng năm này, ông cưới cô Maria
Petrovna Gromoslavskaia, hai người sau đó đã có hai người con trai và hai người
con gái. Hai năm sau, Sholokhov cho xuất bản tập truyện ngắn Những câu chuyện
sông Đông (Donskie Rasskazy) viết về cuộc sống của những người Cozak quê hương
ông trong giai đoạn Thế chiến thứ nhất và Nội chiến Nga. Cũng trong năm 1926,
nhà văn bắt đầu viết những dòng đầu tiên của bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm
đềm (Tikhii Don). Bộ tiểu thuyết về cuộc sống của những người Cozak này đã được
ông viết ròng rã trong gần 14 năm với 4 tập. Tác phẩm đã trở thành một trong những
tiểu thuyết của Văn học Xô viết phổ biến nhất và đã đem lại cho tác giả của nó
Giải Nobel Văn học năm 1965. Khi bắt đầu viết tác phẩm đồ sộ này, Sholokhov mới
21 tuổi, vì vậy Sông Đông êm đềm trong nhiều năm đã bị nghi là đạo văn và còn bị
đề nghị cắt bớt đi một số đoạn bị coi là "không phù hợp" vào thời bấy
giờ. Nhưng nhờ có sự ủng hộ của các nhà văn lão thành như Maxim Gorky và cả của
Stalin, tác phẩm mới được in và phát hành rộng rãi, đồng thời đưa nhà văn trẻ
trở thành một trong những đại diện xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Sau này một số ủy ban đã được thành lập với nhiệm vụ điều tra
xem "Sông Đông êm đềm" có phải là một tác phẩm đạo văn không và họ đều
đi đến kết luận là tác phẩm này đích thực là của Sholokhov, nhất là khi bản thảo
tác phẩm được tìm thấy năm 1999.
Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu
tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản
ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải
mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy
trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng
Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô.
Mikhail
Sholokhov gia nhập Đảng Bolshevik năm 1932 và đến năm 1937 ông được bầu vào Xô
viết Tối cao Liên Xô. Năm 1939 nhà văn được bầu làm Viện sĩ Viện Hàm lâm Khoa học
Xô viết và một thời gian sau là Phó chủ tịch Hội nhà văn Xô viết.
Thời gian chiến tranh và sau
đó
Khi
Chiến tranh vệ quốc vĩ đại nổ ra tháng 6 năm 1941, cũng như nhiều nhà văn khác,
Sholokhov tạm ngừng việc sáng tác các tác phẩm "thời bình" để chuyển
sang viết các tác phẩm về đề tài chiến tranh và khích lệ tinh thần các chiến sĩ
Hồng quân. NĂm 1942 ông cho ra đời tập truyện ngắn Khoa học căm thù (Nauka
Nenavisti) viết về cuộc chiến đấu của những người lính Xô viết chống lại quân đội
Đức Quốc xã. Cùng trong năm này Sholokhov bắt đầu sáng tác tập đầu tiên của bộ
tiểu thuyết Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (Oni Srazhalis Za Rodinu) viết về cuộc đời
những người nông dân Nga bình thường phải đứng lên cầm súng để bảo vệ tổ quốc,
tập đầu của bộ tiểu thuyết được ra đời ngay trong chiến tranh. Tuy nhiên tập thứ
hai của tác phẩm gây nhiều tranh cãi. Sau khi Tổng bí thư Nga lúc bấy giờ mời
Sholockhov lên nói chuyện trở về ông đã đốt tập bản thảo của tập hai bộ tiểu
thuyết và bộ tiểu thuyết không bao giờ có tập hai.
Sau
chiến tranh, năm 1956 Sholokhov tiếp tục đề tài chiến tranh khi cho ra đời tác
phẩm nổi tiếng Số phận một con người (Sudba Cheloveka) với câu hỏi lớn:
"Liệu nhân loại có thể vượt qua thương tổn do chủ nghĩa phát xít gây nên để
xây dựng cuộc sống yên bình hay không". Đây là tiểu thuyết xuất sắc của
Sholokhov đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh của đạo diễn Sergei
Bondarchuk với chính Bondarchuk thủ vai chính, tác phẩm cũng được đưa vào nhà
trường phổ thông để giảng dạy.
Năm
1966 tiểu thuyết Sông Đông êm đềm cũng được chuyển thể thành bộ phim cùng tên của
đạo diễn Sergei Gerasimov. Một năm sau đó nhà văn được phong danh hiệu Anh hùng
Lao động Xã hội chủ nghĩa.
Mikhail
Sholokhov mất tại Moskva ngày 21 tháng 2 năm 1984 ở tuổi 79.
Vinh danh
Mikhail
Sholokhov là một trong số ít nhà văn Xô viết được tặng thưởng Giải Nobel Văn học,
ông được đánh giá cao cả trong và ngoài Liên Xô. Nhiều bức tượng của nhà văn đã
được dựng lên ở các thành phố Nga trong đó bức tượng mới nhất được dựng ngày 25
tháng 4 năm 2007 ở Moskva.
Tên
của ông được dặt cho một tiểu hành tinh trong vành đai chính, 2448 Sholokhov.
Tác phẩm
Những
câu chuyện sông Đông (Донские рассказы) (1925, tập truyện ngắn)
Thảo
nguyên xanh (Лазоревая степь) (1926, tập truyện ngắn)
Sông
Đông êm đềm (Тихий Дон) (1928-1940, tiểu thuyết 4 tập)
Đất
vỡ hoang (Поднятая целина) (1932-1960, tiểu thuyết 2 tập)
Họ
đã chiến đấu vì Tổ quốc (Они сражались за Родину) (1942, phần đầu tiểu thuyết)
Khoa
học căm thù (Nauka Nenavisti) (1942, tập truyện ngắn)
Слово
о Родине (1951)
Số
phận một con người (Судьба человека) (1956-1957, truyện vừa)
Sobranie
Sochinenii (1956-1958, tuyển tập các tác phẩm gồm 8 tập)
Họ
đã chiến đấu vì Tổ quốc (Oni Srazhalis Za Rodinu) (1959, phần tiếp theo)
Po
Veleniju Duši (1970)
ĐỌC NHIỀU
-
[KINH SÁCH – MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH | KỲ 7] “Sách là người bạn trung thành và yên tĩnh nhất, chúng là những nhà cố vẫn dễ tiếp cận và khôn ng...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Phạm Công Tắc – tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những nhà lãnh đạo hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài Chân dung Danh Nh...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Albert Einstein – Nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Ein...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Võ Quốc Thắng – Doanh nhân, Nhà sáng lập Công ty Cổ phần Đồng Tâm Võ Quốc Thắng (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1967) là đại biểu Quốc hội Việ...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CÔNG CHÚA
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PLATON
- S
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- THÁI LAN
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia