Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN T. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DANH NHÂN VẦN T. Hiển thị tất cả bài đăng
23 tháng 4 2013
Rabindranath Tagore, hay Rabindranath Thakur, (6 tháng 5 năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là một nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa được trao Giải Nobel Văn học năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel.
Tagore sinh tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ trong một gia đình trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm giới trí thức của Ấn Độ. Có rất nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia... thường xuyên đến nhà Tagore để đàm luận vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch... Cha ông là Devendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu ông muốn con mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích. Dù sao thì Tagore được hun đúc trong một môi trường văn hóa rất ưu việt. Khi đi học, cậu được học tất cả trên mọi lĩnh vực nhưng cậu thích nhất thơ ca, tiểu thuyết và kịch.
Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore với hơn 1.000 bài (50 tập thơ) - bắt đầu từ việc năm 14 tuổi ông được đăng bài thơ "Tặng hội đền tín đồ Ấn Độ giáo", ông cũng để lại nhiều tiểu thuyết (12 bộ dài và vừa), luận văn, hàng trăm truyện ngắn, kí, kịch (42 vở), 2000 tranh vẽ,... Không kém phần nổi tiếng trong số các tác phẩm của ông là hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet và được xem là kho tàng văn hoá Bengal, ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh, liên quan sâu sắc tới mọi lĩnh vực.
Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông.
Các bài hát của ông được chọn làm quốc ca của cả Ấn Độ và Bangladesh. Năm 1913, ông đoạt giải Nobel về văn chương cho bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Gitanjali (Thơ dâng) của ông. Những tập thơ tiêu biểu của ông là Thơ dâng, Balaca, Người làm vườn,Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn...
Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh (Amritsar) năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường của mình, gọi làBrahmacharyashram (brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh, brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau năm 1921, trường này trở thành Đại học Vishwa-Bharti và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm 1951.
Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới.
Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) của Tagore đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của ông về các nền văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.
Tagore gọi Gandhi là "Mahatma" - linh hồn vĩ đại, và Gandhi (cũng như mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là "Gurudev" - thánh sư.
Thơ ông đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.
21 tháng 4 2013
MARK TWAIN - Nhà văn khôi hài, tiểu thuyết gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng nước Mỹ
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi hài, tiểu thuyết gia và là nhà diễn thuyết nổi tiếng của Mỹ. Ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiện năm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi xuất hiện lần sau, năm 1910.
Cuộc đời của Mark Twain
Mark Twain là nhà văn khôi hài bậc nhất của Hoa Kỳ, là tiểu thuyết gia rất sáng tạo và hấp dẫn do nơi sinh của ông thuộc về miền đất được coi là trái tim của Hoa Kỳ, gần vùng biên giới và ngay tại bờ sông Mississippi và con sông lớn này đã nối hai miền bắc và nam.
Mark Twain có tên thật là Sam Langhorne Clemens, chào đời vào ngày 30 tháng 11 năm1835 tại Florida, thuộc tiểu bang Missouri, và là đứa con thứ sáu. Cha của Sam là ông John Marshall Clemens là một luật sư, đã rời khỏi tiểu bang Virginia để sang định cư tại Missouri còn bà mẹ Jane Lampton Clemens là người từ tiểu bang Kentucky. Đây là một gia đình không giàu có nhưng cho các con được sống tự do, thoải mái. Vào thời kỳ đó, cả hai tiểu bang Missouri và Kentucky đều là tiểu bang duy trì chế độ nô lệ. Năm 1821, Missouri được nhận vào Liên Bang Hoa Kỳ.
Khi lên 4 tuổi tức là vào năm 1839, gia đình của Sam Clemens dọn về Hannibal, một thị xã nhỏ nằm về phía tây trên bờ sông Mississippi. Hannibal cách thành phố lớn Saint Louis 120 dặm về phía bắc. Dân số của thị xã này vào khoảng 1.000 người, một nửa là nô lệ và những người da đen nào không có đủ giấy tờ đều bị bắt. Nhiều người nô lệ da đen bị bán cho các đồn điền thuộc phía Nam trong các tiểu bang như Louisiana,Georgia… Sam Clemens trải qua tuổi trẻ tại thị xã Hannibal, đã từng bơi lội trên sông, chơi đùa trong các cánh rừng hay trên các hòn đảo của dòng sông và đọc các cuốn truyện phiêu lưu mạo hiểm.
Mississippi là một dòng sông rất lớn, nối miền bắc với các thành phố phía nam như Memphis và New Orleans, và do con sông Ohio hội nhập lại, người dân có thể đi tới Cincinnati và các thành phố khác thuộc miền đông. Từ các phong cảnh, kinh nghiệm và kỷ niệm với dòng sông này, tác giả Mark Twain đã viết ra nhiều tác phẩm danh tiếng.
Năm 1847, người cha qua đời, Sam Clemens tới học nghề với người anh tên là Orion, người này có một nhà in và một tờ báo. Vào thời bấy giờ, thợ in không phải là một nghề kiếm nhiều tiền, Sam đã từng đi làm công tại nhiều thành phố như Keokuk hay New York, đã mơ tới xứ Nam Mỹ để đi tìm vàng, mơ tới các cách làm giàu nhanh chóng.
Sam Clemens tới học nghề lái tàu với ông Horace Bixby vào năm 1857 và đã ưa thích nghề mới này hơn tất cả các nghề khác đã từng làm trước kia. Vào thời kỳ đó, thuyền trưởng lái tàu trên sông là một người đứng sau bánh lái và nhiều phong cảnh đẹp của dòng sông đã hiện ra trước mắt, thời gian khác nhau trong ngày lại có các cảnh trí khác nhau, với các khúc sông quanh co chứa nhiều phong cảnh thay đổi từ mùa này sang mùa khác. Các kinh nghiệm và kỷ niệm của quãng đời học nghề lái tàu này đã được tác giả Mark Twain mô tả trong cuốn truyện "Đời sống trên dòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi).
Sam Clemens lấy được bằng lái tàu trên sông vào năm 1859 nhưng rồi Nội chiến Hoa Kỳ đã xảy ra, khiến cho việc lưu thông trên sông Mississippi bị chấm dứt. Trong thời Nội Chiến, Sam Clemens đã tham gia vào Lực Lượng Quân Sự Miền Nam nhưng sau ba tuần lễ, đã đào ngũ, trốn đi theo nghề đào mỏ bạc tại tiểu bang Nebraska, rồi lang thang từ thị xã này qua thành phố kia và cuối cùng tới tiểu bang Nebraska, định cư tại thị xã Virginia City. Sam Clemens bắt đầu viết bài cho tờ báo Territorial Enterprise của thị xã này.
Vào năm 1863, Sam Clemens dùng bút hiệu "Mark Twain", có nghĩa là "sâu 2 tầm", do từ các kỷ niệm lái tàu trên dòng sông Mississippi. Sau lần cãi nhau với chủ bút tờ báo, Mark Twain rời Nebraska và dọn qua tiểu bang California vào mùa xuân năm 1864. Từ năm 1865, danh tiếng đã tới với Mark Twain sau khi ông cho xuất bản cuốn truyện "Con ếch hay nhảy của quận hạt Calaveras" (the Jumping Frog of Calaveras County). Khi công ty Tàu Thủy Thái Bình Dương (the Pacific Steamboat Company) khánh thành tuyến đường thủy giữa thành phố San Francisco và các hải đảo Hawaii, thời bấy giờ còn được gọi là các đảo Sandwich (the Sandwich Islands), Mark Twain được tờ báo The Sacramento Union phái đi làm phóng sự. Mark Twain đã viết một loại bài châm chọc các du khách. Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại (colloquial speech) vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài (humorist), chuyên chế giễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời và ông được xếp hạng cùng với các nhà văn như Bret Harte, Artemus Ward và Petroleum V. Nasby. Đây là các nhà văn rất nổi tiếng về các câu chuyện dân gian, viết bằng giọng văn có chứa đựng các thổ ngữ và nhiều chi tiết hài hước.
Năm 1867, Mark Twain thực hiện một chuyến du lịch qua châu Âu và miền Đất Thánh Palestine bằng con tầu thủy Quaker City. Các bức thư kể về chuyến du lịch này, gửi cho tờ báo Alta California tại thành phố San Francisco và tờ báo New York Tribune tại thành phố New York, được gom lại và xuất bản vào năm 1869 thành cuốn truyện "Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài" (The Innocents Abroad). Qua cuốn này, Mark Twain đã chế giễu sự điên khùng của nhiều du khách Mỹ đã phải băng qua đại dương để đi coi các ngôi mộ của những người đã chết trong khi còn rất nhiều thứ đang sống, đáng coi hơn tại Hoa Kỳ. Tác giả Mark Twain cũng viết khôi hài về các cảnh nhìn thấy, về các tập quán nghịch lý của các quốc gia đã đi qua và so sánh Hoa Kỳ là một đất nước sống động, đang phát triển, trái ngược với châu Âu là một miền đất đang thoái hóa, suy tàn. Tác phẩm của ông đã khiến ông nổi tiếng và được nhiều người tôn trọng, đồng thời các nhà văn Miền Tây Hoa Kỳ không còn bị coi thường như trước kia.
Do là một nhà văn nổi tiếng, Mark Twain kết hôn vào năm 1870 với cô Olivia Langdon, thuộc một gia đình giàu có và danh giá. Các kỷ niệm và cách tán tỉnh người đẹp của thời kỳ này được lưu dấu trong các bức thư mà Mark Twain viết cho Olivia và cho các bạn của cô nàng, rồi về sau thể hiện qua lối ve vãn của Tom đối với Becky trong tác phẩm "Tom Sawyer". Sau đám cưới 5 năm, Mark Twain rời gia đình về thành phố Elmira, thuộc tiểu bang New York, rồi dọn sang cư ngụ tại thành phố Hartford thuộc tiểu bang Connecticut vào năm 1871. Tại nơi sau này đã ra đời các người con của Mark Twain: con trai Langdon chết non vào năm 1872, sau đó là ba cô con gái Susy, Clara và Jean, chào đời trong các năm từ 1872 tới 1880. Vào năm 1874, gia đình Mark Twain dọn về một căn nhà sang trọng 19 phòng tại Hartford.
Tại thành phố Hartford, Mark Twain đã làm quen được một số nhân vật trong giới văn học, trong số này có William Dean Howells là một tác giả danh tiếng và chủ nhiệm của tờ nguyệt san "The Atlantic Monthly". Howells đã sớm nhận ra tài năng hài hước của Mark Twain, ông đã khuyến khích nhà văn trẻ phát triển biệt tài đó bằng cách cố vấn và trợ giúp cho tờ nguyệt san Atlantic.
Trong 20 năm trường sống tại thành phố Hartford hay tại Quarry Farm gần thành phố Elmira, New York, Mark Twain đã viết rất nhiều và các bài viết được phổ biến qua các tạp chí văn học xuất bản tại hai thành phố Boston và New York.
Sau cuốn "Sống thiếu thốn" (Roughing It) kể về cuộc đời của một người thợ mỏ và một nhà báo, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Mark Twain là "Thời Kỳ Vàng Son" (The Gilded Age, 1873). Tác giả đã viết cuốn này chung với Charles Dudley Warner, một người bạn và một nhà văn sống tại Hartford. Cuốn "Thời Kỳ Vàng Son" nói về các thập niên sau Cuộc Nội Chiến qua đó tác giả châm chọc tính ích kỷ và các cách kiếm tiền phổ thông của thời bấy giờ.
"Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer, 1876) được coi là hồi ký của Mark Twain và tác giả mô tả Tom Sawyer, anh bạn Huck Finn và tên gian ác Injun Joe cũng như làng St. Petersburg nhờ các kỷ niệm sống tại Hannibal khi trước.
"Đi nước ngoài" (A Tramp Abroad, 1880) được viết ra từ chuyến du lịch châu Âu của tác giả vào năm 1878. Cuốn truyện này kể lại các chuyến đi qua các nước Đức, Thụy Sỹ và Ý và qua đó, tác giả đã pha trộn các truyền thuyết, chuyện kể, chuyện khôi hài và các nhân vật địa phương để chế giễu nhẹ nhàng các sách du lịch và nền văn hóa tại châu Âu.
"Hoàng Tử và kẻ nghèo" (The Prince and the Pauper, 1882) dùng khung cảnh nước Anh vào năm 1550, mô tả sự trao đổi nhân dạng giữa Hoàng Tử Edward-6 của nước Anh và đứa trẻ nghèo hèn tên là Tom Canty. Cuốn truyện này đã làm vừa lòng một số độc giả thuộc vùng Tân Anh Cát Lợi nhưng một số người khác lại bất mãn vì họ ưa thích loại truyện đã xuất bản trước kia.
"Đời sống trên dòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi, 1883) mô tả về lịch sử, truyền thuyết, khung cảnh, con người của các con tàu thủy, của các thành phố dọc theo con sông Mississippi. Tác giả Mark Twain đã kể rõ về những ngày lái tàu của mình khi trước từ chương 4 tới chương 17. Các chương này trước kia đã được phổ biến trên tờ nguyệt san Atlantic vào năm 1875 qua loạt bài "Thời xưa trên dòng sông Mississippi" (Old Times on the Mississippi).
"Các cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" (The Adventures of Huckleberry Finn) được coi là tác phẩm danh tiếng nhất của Mark Twain, được xuất bản tại nước Anh vào năm 1884 và Hoa Kỳ vào năm 1885, và là phần tiếp của cuốn "Tom Sawyer". Cuốn truyện này mô tả các cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trốn nhà, là Huck Finn và một em nô lệ da đen tên là Jim. Tom Sawyer cũng xuất hiện lại trong một số chương với trò khôi hài cố hữu. Trong truyện, Mark Twain đã dùng thứ ngôn ngữ hiện thực (realistic language) thêm vào là nhiều loại thổ ngữ (dialects) làm cho sống động các nhân vật. Các lối hành xử thiếu đạo đức, lời nói vô hạnh nhất thời của nhân vật Huck Finn và cách dùng văn phạm thiếu thận trọng của tác giả trong tác phẩm, đã làm cho một số độc giả bất mãn. Thư viện công lập Free Public Library đã cấm cuốn truyện này vào năm 1885. Ngoài ra, một số độc giả còn phản đối Mark Twain vì cho rằng ông đã chấp nhận chế độ nô lệ, lời văn mang tính kỳ thị và đã dùng chữ "nigger" (kẻ nô lệ dơ bẩn). Thực ra đối với thời bấy giờ, Mark Twain là một người tiến bộ về vấn đề chủng tộc và các chủ đề sâu xa viết về Huckleberry Finn đã bàn tới sự bình đẳng căn bản và khát vọng toàn cầu của mọi người thuộc mọi chủng tộc.
Cuối cùng, tác phẩm "Người Mỹ trong Triều Đình của Vua Arthur" (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889) đã trình bày một nhân vật khác nhiều màu sắc. Đây là người đốc công trong xưởng kim loại từ Hartford, Connecticut, tên là Hank Morgan. Nhờ quỷ thuật, Morgan thấy mình được sống tại nước Anh vào khoảng năm 500 sau Công nguyên, nên đã quyết định cải tổ xã hội Anh bằng cách đưa vào đó các lợi ích về kinh tế, tri thức và đạo đức của các năm 1800. Nhưng trước các cải cách và hoạt động từ thiện, đám đông quần chúng ngu dốt, cố vấn do giới Hiệp Sĩ và Tu Sĩ mê tín, đã nổi lên lật đổ Nhà Vua nước Anh. Qua các sự kiện xảy ra trong truyện, tác giả đã gián tiếp chế nhạo các thái độ tôn kính của một số tác giả đối với các Hiệp Sĩ Bàn Tròn, đồng thời Mark Twain cũng đưa ra một số câu hỏi về giá trị của nền văn hóa đương thời tại Hoa Kỳ.
Vào thập niên 1880, Mark Twain đã thiết lập và điều hành một công ty xuất bản cho riêng mình cũng như tìm cách đầu tư vào vài phạm vi thương mại khác, đặc biệt là việc chế tạo máy in do người phát minh tên là Paige. Trong các năm từ 1881 tới 1894, Mark Twain đã lỗ vốn gần 200,000 mỹ kim đầu tư vào thứ máy in kể trên, vì các thay đổi về kiểu mẫu, đặc tính đã đưa tới thất bại. Tháng 4 năm 1894, công ty ấn loát của Mark Twain phải tuyên bố phá sản rồi từ tháng 1 năm 1895, nhà văn bị ô danh vì không trả được nợ. Nhưng nhà văn đã tìm cách phục hồi tài sản bằng cách đi diễn thuyết, có khi thu được 1,000 đô la Mỹ mỗi lần và ông đã từng thực hiện nhiều chuyến đi được quảng cáo rầm rộ, tới cả các thành phố xa xôi thuộc Ấn Độ, Nam Mỹ và châu Úc. Mark Twain kết bạn với các nhân vật danh tiếng, giàu có như Andrew Carnegie, William Rockfeller và được trao tặng các văn bằng danh dự tại Đại học Yale vào năm 1901, Đại học Missouri vào năm 1902 và Đại học Oxford vào năm 1907. Tác giả Mark Twain là một nhân vật quốc tế, thường mặc bộ âu phục màu trắng mang vẻ phô trương, hút thuốc xì gà, với các bài nói chuyện hàm chứa nhiều chỉ trích xã hội một cách cay đắng và các bài văn này về sau được phổ biến qua các tác phẩm "Người ngồi trong bóng tối" (The Person sitting in the Darkness, 1901) và "Độc Thoại của Vua Leopold" (King Leopold 's Soliloquy, 1905).
Sau khi đã phục hồi được các vấn đề tài chính vào năm 1898, Mark Twain lại gặp các thảm cảnh trong đời sống gia đình. Người con gái lớn nhất Susy qua đời vào năm 1896 vì bệnh đau màng óc trong khi cha mẹ và em Clara đang ở nước ngoài. Năm 1903, Mark Twain bán đi ngôi nhà thân thương tại Hartford vì những kỷ niệm về Susy. Tới ngày 5 tháng 6 năm 1904, bà vợ Olivia cũng lìa đời vì bệnh tim rồi người con gái út tên là Jean, trước kia mắc bệnh kinh phong, cũng chết vào ngày 24 tháng 12 năm 1909.
Mặc dù các khó khăn tài chính và thảm cảnh gia đình trong các năm cuối đời, Mark Twain vẫn thu xếp để viết văn. Các tác phẩm cuối đời của ông gồm "Người Mỹ đòi quyền lợi" (The American Claimant, 1892) viết về một nhân vật không thực tế là đại tá Mulberry Sellers. Cuốn tiểu thuyết này được căn cứ vào vở kịch không thành công mà tác giả đã soạn ra cùng với nhà phê bình William Dean Howells vào năm 1883. Một tiểu thuyết trinh thám khác có tên là "Bi Kịch của Pudd'nhead Wilson" (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) bàn tới thành kiến chủng tộc (racial prejudice), một vấn đề quan trọng của xã hội Mỹ. "Nhớ về Joan of Arc" (Personal Recollections of Joan of Arc, 1896) là một cuốn tiểu sử (biography) dựa vào các tài liệu lịch sử. Mark Twain cũng kể lại những kinh nghiệm trong các chuyến đi diễn thuyết tại nước ngoài vào năm 1895, 1896 qua cuốn tiểu thuyết "Theo Đường Xích Đạo" (Following the Equator, 1897) trong khi cuốn truyện ngắn "Kẻ tham nhũng tại Hadleburg" (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899) đã chế giễu các nhà lãnh đạo tự phụ của một thành phố. Các tác phẩm của Mark Twain càng về sau, càng mất dần tính khôi hài của thời tuổi trẻ và bộc lộ cách nhìn bi quan hơn do tác giả nghi ngờ các loại tôn giáo, do tác giả nhận ra các động lực chính của con người là lòng ích kỷ.
Đại Văn Hào Mark Twain qua đời vì bệnh tim vào ngày 21 tháng 4 năm 1910, để lại nhiều bản thảo kể cả một cuốn tự thuật lớn và dở dang. Bản thảo của một tác phẩm bi quan xuất bản vào năm 1916 có tên là "Người xa lạ bí mật" (The Mysterious Stranger) đã mô tả cuộc viếng thăm của quỷ Sa Tăng tới một ngôi làng thuộc nước Áo vào thời Trung Cổ.
Dù cho thất vọng trước cuộc đời, Đại Văn Hào Mark Twain vẫn nổi danh là một nhà văn khôi hài bởi vì ông đã nhìn thấy trong các hình ảnh rực rỡ và lãng mạn của xã hội, các tập quán và định chế giả hiệu, có gian ý, và ông đã dùng cách diễn tả quá đáng một cách hữu hiệu để công kích các thói đạo đức giả, các thái độ tự mãn của người đời, các bất công của xã hội. Ngoài các tác phẩm đặc sắc, một trong các đóng góp lớn lao của Đại Văn Hào Mark Twain là cách hành văn đặc biệt Mỹ, khác hẳn lối viết văn của các tác giả người Anh. Mark Twain là một trong các nhà văn Mỹ hạng nhất, một bậc thầy về ngôn ngữ theo hình thức tiêu chuẩn, chứa đựng thứ tiếng địa phương của Miền Tây Hoa Kỳ. Thể văn buông lỏng (loose rhythm of the language) trong các tác phẩm của Mark Twain đã cho người đọc cảm giác về lời nói thực sự (real speech) và lối hành văn hiện thực này đã ảnh hưởng tới nhiều nhà văn Mỹ khác, khiến cho Đại Văn Hào Ernest Hemingway đã có lần xác nhận rằng: "Tất cả nền văn chương hiện đại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ … Huckleberry Finn".
Sự nghiệp sáng tác
Mark Twain là một nhà văn trào phúng nổi tiếng của Mỹ. Những tác phẩm của ông, với tính chất châm biếm sâu sắc, với những nét miêu tả tâm lý xã hội cực kỳ khéo léo, đã trở thành những vũ khí sắc bén đấu tranh chống sự áp bức thống trị của bọn cầm quyền phong kiến tư bản, nhất là chống cái chính sách dã man phân biệt chủng tộc đối với người da đen ở Mỹ.
Con đường đến với văn học của Twain đến nay vẫn không khỏi khiến người ta ngạc nhiên, khởi đầu bằng một tác phẩm hài hước có tựa đề "The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County" (Con ếch nhảy trứ danh ở Calaveras). Dù ngày nay đọc lại, tác phẩm đó không thể kiếm nổi của độc giả một nụ cười nhưng lúc bây giờ, "Con ếch nhảy..." đã giúp ông trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tiếp đó là những chuyến ngao du khắp đất nước với những buổi nói chuyện trước những cử tọa chật kín, ông đã khiến khán giả cười vỡ bụng bằng khiếu nói chuyện hài hước và thông minh của mình.
Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài, chuyên chế giễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời.
Đánh giá về Mark Twain
Với những tiểu thuyết đặc sắc và những nhân vật sống động cống hiến cho nền văn học Mỹ, Mark Twain xứng đáng là vì tinh tú đầu tiên của nền văn học hiện đại nước này. Mark Twain tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Ông sinh năm 1835 và mất năm 1910. Điều kỳ lạ là vào năm nhà văn ra đời, sao chổi Halley rực sáng trên bầu trời Florida và khi ông mất, năm 1910, sao chổi Halley lại một lần nữa vẫy cái đuôi sáng lòa của mình trên nền trời xanh thẳm. Như một ngôi sao với thứ ánh sáng rực rỡ quệt ngang qua bầu trời, Mark Twain đến nay vẫn được coi là ngôi sao sáng nhất trong giới những người cầm bút trên văn đàn Mỹ. Trong cuốn tiểu sử mới nhất có tựa đề Mark Twain: a Life (Mark Twain - một cuộc đời), tác giả Ron Powers viết: "Mark Twain đã làm thay đổi cách nghe nhìn của người Mỹ, ông chính là một Lincoln trong văn học". Ông đã trả lại cho nước Mỹ ngôn ngữ và giọng điệu của con người bản xứ nước này, không phải bằng lối giễu nhại hay châm biếm mà bằng thứ văn học tinh tế và đầy chất hài hước. Bố mẹ Clemens là cư dân bang Virginia nhưng ông được sinh ra tại Florida, trong một gia cảnh khá chật vật, túng thiếu. Năm 1839, gia đình ông chuyển đến sống tại Hannibal, thành phố nhỏ nằm cạnh dòng sông Mississippi. Cha mất sớm, nhà văn tương lai phải bỏ học và theo nghề lái tàu kiếm sống. Khi cuộc nội chiến bùng nổ, nhà văn bỏ tàu, bỏ sông nước trôi dạt theo cuộc sống phiêu lưu ở những dãy núi miền Tây nước Mỹ. Nhưng những ngày tháng lênh đênh trên tàu đã để lại cho ông những ấn tượng sâu sắc, trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn viết nên những kiệt tác như "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer -1876), "Cuộc sống trên sông Mississippi" (Life on the Mississippi - 1883) và "Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" ( The Adventures of Huckleberry Finn - 1884). Những mỏ vàng, mỏ bạc ở miền viễn Tây đã quyến rũ giấc mơ làm giàu của Clemens nhưng vận may không mỉm cười với ông. Nhà văn tương lai rách rưới và bụi bặm đến nỗi khi đến nộp đơn xin làm phóng viên ở một tòa soạn báo, Clemens trông giống một tên ma cà bông hơn là một người có khả năng cầm bút. Sau khi đã định hình được một phong cách báo chí cho riêng mình, cái tên cúng cơm Samuel Clemens được đổi thành Mark Twain. Bút danh này xưa nay vẫn gây tranh cãi trong giới học giả nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Có hai giả thuyết chính. Giả thuyết thứ nhất cho rằng, Mark Twain có nghĩa là "mark two" - chỉ mực nước khoảng 2 sải (tương đương với 3,7m) - một thuật ngữ mà những người dò sông biển thường dùng để báo tin cho nhau, chỉ đường đi an toàn. Giả thuyết thứ hai giải thích, bút danh này bắt nguồn từ những ngày lang bạt kỳ hồ ở miền Tây của nhà văn. Lúc đó, ông thường vào quán, gọi liền hai cút rượu và bảo người phục vụ đánh dấu "Mark twain" vào hóa đơn của mình. Nhưng trong một tài liệu, nhà văn viết: "Người thuyền trưởng già, dù chẳng giỏi giang và hay chữ gì nhiều nhưng ông thường sử dụng ký tự MARK TWAIN để thông tin về tình hình sông nước. Những thông tin này cực kỳ chính xác và có giá trị, nó có nghĩa là an toàn, không nguy hiểm...". Con đường đến với văn học của Twain đến nay vẫn không khỏi khiến người ta ngạc nhiên, khởi đầu bằng một tác phẩm hài hước có tựa đề "The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County" (Con ếch nhảy trứ danh ở Calaveras). Dù ngày nay đọc lại, tác phẩm đó không thể kiếm nổi của độc giả một nụ cười nhưng lúc bây giờ, "Con ếch nhảy... " đã giúp ông trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tiếp đó là những chuyến ngao du khắp đất nước với những buổi nói chuyện trước những cử tọa chật kín, ông đã khiến khán giả cười vỡ bụng bằng khiếu nói chuyện hài hước và thông minh của mình.
Tác phẩm
· Sống thiếu thốn (Roughing It)
· The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County and Other Sketches (1867)
· Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài (Innocents Abroad, 1869)
· Thời kỳ vàng son (The Gilded Age, 1873).
· Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (The Adventures of Tom Sawyer, 1876)
· Đi nước ngoài (A Tramp Abroad, 1880)
· Hoàng tử và kẻ nghèo (The Prince and the Pauper, 1882)
· Đời sống trên dòng sông Mississippi (Life on the Mississippi, 1883)
· Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (The Adventures of Huckleberry Finn, 1884)
· Tên Yankee từ Connecticut trong triều đình vua Arthur (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889)
· Người ngồi trong bóng tối (The Person sitting in the Darkness, 1901)
· Độc thoại của vua Leopold (King Leopold 's Soliloquy, 1905)
· Người Mỹ đòi quyền lợi (The American Claimant, 1892)
· Bi kịch của Pudd'nhead Wilson (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) b
· Theo đường xích đạo (Following the Equator, 1897)
· Kẻ tham nhũng tại Hadleburg (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899)
· Người xa lạ bí mật (The Mysterious Stranger, 1916)
07 tháng 12 2012
HOÀNG TỤY
Giáo
sư Hoàng Tụy là người đặt nền móng cho chuyên ngành toán học mới: Lý thuyết Tối
ưu Toàn cục. Cống hiến lặng lẽ của ông với toán học sau này trong nước mới
được nhiều người biết tới trong khi đó ở thế giới trường phái toán học Hà Nội
đã mặc nhiên được thừa nhận.
Hoàng
Tụy sinh ngày 17/12/1927, tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, là cháu nội em ruột cụ Hoàng
Diệu - Nhà yêu nước chống thực dân xâm lược Pháp hồi đầu thế kỷ XX. Ông bộc lộ
thiên hướng toán học từ những năm còn trẻ, tuy nhảy cóc hai lớp nhưng ông vẫn
đỗ cao kỳ thi Tú tài phần 1, năm sau chỉ tự học bốn tháng đỗ đầu kỳ
thi Tú tài toàn phần ban toán. Năm 1951 đang là giáo viên dạy toán tại
Liên khu 5, khi nghe tiến sĩ Lê Văn Thiêm vừa về nước mở trường khoa học cơ
bản, ông xin phép chính quyền kháng chiến mang ba lô có muối, gạo và vài cuốn sách
toán đi bộ ròng rã sáu tháng trời để tới chiến khu Việt Bắc, đến nơi thì biết
rằng chương trình này ông đã tự học xong cả rồi.
Ông
thuộc vào dạng nhà toán học khai phá những con đường mới, mặc nhiên chấp nhận
sứ mệnh của mình với niềm say mê vô bờ. Lĩnh vực nghiên cứu của ông khá phong
phú: Hàm thực, Giải tích lồi, vận trù học, Lý thuyết hệ thống và đặc biệt
là lĩnh vực Tối ưu. Tối ưu Toàn cục là hướng nghiên cứu do ông đề
xuất năm 1964. Ông vừa là người mở đường vừa là người đưa ra những kỹ thuật cơ
bản khi giải bài toán tìm Cực tiểu hàm lõm trên một tập đa diện lồi như
Siêu phẳng cắt, Phép chia nón. Ðây cũng là bài toán trung tâm, thường gặp nhất
và nằm trong hầu hết các bài toán Tối ưu toàn cục khác. Các
ý tưởng cơ bản và phương pháp đề xuất trong công trình đó đã phát triển thành
khái niệm và phương pháp có tính kinh điển. Ðến những năm 80 Quy hoạch
lõm được nhiều người nghiên cứu ứng dụng, nhu cầu đòi hỏi cần phải xây
dựng một khung toán học vững chắc để bao quát những bài toán rộng hơn Quy
hoạch lõm. Lý thuyết Tối ưu DC (Difference of two convex functions -
Hiệu hai hàm lồi) ra đời vào khoảng năm 1985 đáp ứng nhu cầu ấy.
Với
140 công trình khoa học và ba chuyên khảo về lĩnh vực này, Giáo sư Hoàng Tụy
được cộng đồng quốc tế coi là người dẫn đầu trong lĩnh vực Tối ưu toàn
cục. Ba chuyên khảo đã được xuất bản là: "Global Optimization -
Deterministic approaches" R.Horst & H.Tuy - Springer Verlag 1990 (Tối
ưu toàn cục tất định), "Optimzation on Low Rank Nonconvex Structures"
H.Konno, P.T.Thach & H.Tuy - Kluwer - 1997 (Tối ưu hóa trên những cấu trúc
không lồi bậc thấp) và "Convex Analysis and Global Optimization"
H.Tuy - Kluwer Academic Publishers 1998 - giáo trình cho nghiên cứu
sinh Toán Tối ưu. Lý thuyết Tối ưu DC còn có hạn chế vì chỉ mới khai
thác tính chất lồi hoặc lồi đảo trong khi đó tính đơn điệu
lại rất phổ biến. Cho nên ba năm gần đây giáo sư Hoàng Tụy mở hướng nghiên cứu
mới về Tối ưu đơn điệu, mà theo đánh giá của những chuyên gia trong ngành
thì đó là khởi đầu của một giai đoạn mới cho Tối ưu Toàn cục Tất định.
Năm
1997 một cuộc hội thảo toán học quốc tế nhằm tôn vinh giáo sư Hoàng Tụy được tổ
chức tại Viện công nghệ Linkoping,
Thụy Ðiển. Tập sách Kỷ yếu hội thảo ấy đã được xuất bản tháng 7/2001. Vẻ
đẹp tự nhiên và tao nhã (từ dùng của các nhà toán học) của những chứng minh
toán học của ông chinh phục được các nhà khoa học thế giới, các bài toán của
ông có ứng dụng trong nhiều ngành khoa học, công nghệ và kinh tế trong đó có
những vấn đề thuộc lĩnh vực mũi nhọn của thế giới về tin học và sinh học.
Năm
1988 tại Ðại hội quốc tế về quy hoạch toán học lần thứ 13 tại Tokyo các nhà
toán học thành lập tạp chí Global Optimization (Tối ưu Toàn cục) mời ông
làm Tổng biên tập nhưng ông từ chối với lý do Việt Nam lúc đó liên hệ với nước
ngoài còn nhiều khó khăn, chưa có điều kiện thuận lợi cho việc biên tập một tạp
chí khoa học quốc tế. Ông là ủy viên sáng lập của tạp chí này và là ủy viên Ban
biên tập nhiều tạp chí quốc tế nổi tiếng khác như Mathematical Progamming (Quy
hoạch toán học), Optimization. Nhiều trường đại học lớn trên thế giới mời ông
đến giảng bài và giúp đào tạo tiến sĩ chuyên ngành. Giáo sư Hoàng Tụy cũng là
tác giả của một số công trình toán học xuất bản tại Việt Nam như
"Lý thuyết quy hoạch tuyến tính" - 1967, "Giải tích hiện
đại" - 1965, "Phân tích hệ thống và ứng dụng" - 1987, là những
tài liệu giáo khoa nổi tiếng trong nước.
Bài
toán Tối ưu đầu tiên của ông đăng ở báo cáo của Viện Hàn
lâm Khoa học Liên Xô nên nhiều nhà khoa học thế giới tưởng ông là người
Nga. Mãi đến năm 1971 giáo sư người Mỹ Egon Balas mới viết đúng tên ông và quê
hương Việt Nam.
Mới đây ông lại được mời sang Mỹ giảng chương trình tối ưu đơn điệu để áp dụng
vào một số nghiên cứu công nghệ sinh học và kỹ thuật chế tạo. Những ứng dụng
rộng rãi của hướng nghiên cứu của ông được đánh giá cao trên trường quốc tế.
Dưới
sự lãnh đạo của ông, nhóm nghiên cứu tối ưu và điều khiển tại khoa Toán Ðại học
Tổng hợp trước đây và của Viện Toán học Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông đã
tham gia nhiều công trình ứng dụng thực tế về Vận trù học, toán Kinh
tế, khoa học Hệ thống v.v...
Hoàng
Tụy cùng với giáo sư Lê Văn Thiêm đã có đóng góp lớn trong việc thành lập Viện
Toán học và Hội Toán học Việt Nam. Viện Toán học Việt Nam hiện nay được Viện
hàn lâm khoa học thế giới thứ ba công nhận là một trong 10 trung tâm toán học
xuất sắc của các nước đang phát triển. Năm 1995 ông được trường Ðại học tổng
hợp Linkoping (Thụy Ðiển) phong tặng Tiến sĩ danh dự về công nghệ. Năm 1996 ông
được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật. Ông được
các trường đại học trên thế giới mời hội nghị. Giữa tháng sáu này, các trường
đại học hai nước Áo và Pháp mời ông diễn thuyết.
19 tháng 7 2012
ĐẶNG VĂN THÀNH
Căn phòng làm việc ngăn nắp của ông tại tầng thứ 14 Toà
nhà Sacombank, nơi có thể nhìn xuống con đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (TP.HCM) người xe
ồn ào hay phóng tầm mắt ra bao quát cả một góc thành phố. Vào một buổi chiều tháng
7, câu chuyện của chúng tôi với vị Chủ tịch HĐQT của Sacombank - Ông Đặng
Văn Thành ngày càng sôi nổi, từ những hồi ức về khát vọng thời trai trẻ, sự tự
hào về bước đường thành công, vị thế của Sacombank ngày nay và cả những
tâm sự riêng tư về tổ ấm…
Máu kinh doanh đã thấm vào tôi
Sự thành công của Sacombank gắn liền
với vai trò kiến tạo rất lớn của người thuyền trưởng. Tuy nhiên, khi khởi
nghiệp, ông lại bắt đầu với lĩnh vực kinh doanh đường, vậy cơ duyên nào đưa ông
đến với lĩnh vực tài chính - ngân hàng?
Tôi
sinh trưởng trong một gia đình có bố là Đông y sĩ. Các anh em tôi mỗi người đều
chọn cho mình một hướng đi riêng, tuy nhiên, không ai mặn mà với nghiệp doanh
nhân. Dường như chỉ riêng tôi là có máu kinh doanh thấm trong người. Quãng độ
những năm 1989 - 1990, khi đang có Công ty Thành Thành Công - một Công ty quy
mô tương đối lớn tại miền Nam chuyên kinh doanh, phân phối đường cát, mật rỉ,
thực phẩm công nghệ, cồn… thì Nhà nước khuyến khích thành lập Hợp tác xã tín dụng.
Giai đoạn đó nước mình mới bắt đầu chập chững chuyển sang nền kinh tế thị
trường, phong trào này nổi lên khắp nơi nhằm hỗ trợ cho thị trường tài chính.
Tôi là người có máu kinh doanh nên tự nhủ kinh doanh tiền tệ là ngành kinh
doanh có nhiều tiềm năng bởi nền kinh tế thị trường vừa mới vận hành, dư địa
phát triển cho mô hình các tổ chức tín dụng rất lớn, tôi quyết tâm theo ngã rẽ
mới sau 12 năm gắn bó với kinh doanh đường. Nhìn thấy cơ hội lớn sao ta không
thử dấn thân?
Tuy nhiên sau đó phong trào này cũng
nhanh chóng đổ vỡ dây chuyền. Hợp tác xã tín dụng nơi ông làm việc lúc đó ra
sao?
Lúc
bấy giờ, kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt như tiền tệ có rất nhiều khó khăn
như nguyên lý kinh doanh chưa rõ ràng, những người có chuyên môn thực sự rất
ít, hành lang pháp lý chưa hoàn chỉnh. Những khái niệm như “thế chấp”, các Hợp
tác xã tín dụng cũng còn bỡ ngỡ. Chúng tôi phải vừa làm vừa học, học từ sách
vở, học từ thực tế và vận dụng cả các kinh nghiệm ngoài thương trường trước đó.
Trong giai đoạn khó khăn này, rất ít Hợp tác xã tín dụng có thể tồn tại được
lâu. Ấn tượng lớn nhất trong giai đoạn đó là chúng tôi nỗ lực dốc hết sức
người, sức của kể cả việc dùng nguồn vốn của gia đình, bạn bè tập trung phát
triển Hợp tác xã tín dụng. Cuối cùng thì toàn TP.HCM chỉ có 13 đơn vị trụ lại
được, 4 trong số 13 đơn vị được cải tổ mô hình hoạt động và sau đó trở thành Sacombank.
Ra đời năm 1991, đến nay Sacombank đã tròn 19 tuổi nhưng tôi đã có tới 21 tuổi
nghề, cái nghề đã có trước khi ngân hàng thực sự được khai sinh.
Sacombank - Chặng đường phát triển
Sacombank là một trong các ngân hàng
thương mại cổ phần đầu tiên có cổ đông chiến lược nước ngoài. Ông có thể chia
sẻ kinh nghiệm trong hợp tác chiến lược của mình?
Khi
Sacombank được phép kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, sự thật lúc đó ngân hàng rất
cần sự hỗ trợ tài chính và kinh nghiệm từ bên ngoài để tạo nên động lực tăng
trưởng mới. Việc chọn đối tác chiến lược của Sacombank rất kỹ lưỡng. Khi được
sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước, chúng tôi đã bắt đầu đưa ra tiêu chí và tiêu
chuẩn đầu tiên, đó là đối tác chiến lược phải thực sự quan tâm đến thị trường
vốn Việt Nam và có khả năng hỗ trợ Sacombank. Ban đầu chúng tôi chọn Công ty
Tài chính Quốc tế IFC - một định chế tài chính lớn, đáp ứng được mọi tiêu chí
đề ra. Đối tác tiếp theo là Ngân hàng ANZ, nắm giữ 9.93% vốn điều lệ đến với
chúng tôi vào năm 2005. Riêng Dragon Capital đến với Sacombank sớm hơn từ năm
2001. Tôi rất cảm kích Dominic Scriven - một người đồng cảm, tâm huyết với thị trường
vốn Việt Nam
trong thuở khó khăn ban đầu. Các cổ đông chiến lược nước ngoài đã hỗ trợ rất
lớn, góp phần giúp Sacombank lớn mạnh, tạo nên diện mạo như ngày nay. Thời gian
gần đây một số đối tác nước ngoài đã thoái bớt vốn, chúng tôi xem đó là chuyện
bình thường, cũng phải thông cảm vì họ đều có những kế hoạch, chiến lược phát
triển riêng. Tham vọng muốn họ cùng đi với ngân hàng trong cả chặng đường dài
là rất khó.
Cuộc khủng hoảng năm 2008 khiến các
doanh nghiệp chịu nhiều tác động. Với Sacombank, ngân hàng đã chủ động xây dựng
và thực thi “chiến lược tình thế 2009 - 2010”. Ông có thể chia sẻ về điều
này?
Trong
năm 2009 - 2010, chúng tôi đã có những bước đi tình thế mềm dẻo, quản trị ngân
hàng theo hướng “vừa phòng thủ vừa tiến công”. Phòng thủ là không được chủ
quan, tiếp tục đưa ra các biện pháp quản trị rủi ro nhưng không co cụm tiêu cực
mà vẫn chủ động chờ đợi cơ hội nhằm vươn lên gia tăng chiếm lĩnh thị phần.
Chẳng hạn, năm 2008, Sacombank đã tổ chức lễ ký kết hợp tác chiến lược toàn
diện với Trường Hải, Hoàng Anh Gia Lai, Đồng Tâm Long An… Đồng thời, chúng tôi
cũng đã hỗ trợ về tài chính nhiều cho khách hàng lâu năm, đối tác thân thiết
của Sacombank. Minh chứng rõ nhất cho tư tưởng “tấn công” này là Sacombank vẫn
tái cơ cấu và chuyển đổi thành công, ra mắt mô hình hoạt động mới là Tập đoàn
Sacombank. Cuộc khủng hoảng năm 2008 là một thách thức mà có thể vài chục năm
mới tái diễn. Tác động khủng hoảng là rất nặng nề, cơn địa chấn đã đào thải nhiều
doanh nghiệp nhưng mặt khác cũng giúp các doanh nghiệp trưởng thành hơn, trong
đó có Sacombank. Trong lúc khó khăn thị trường vẫn thường xuyên xuất hiện những
cơ hội.
Ông tổng kết lại chặng đường phát triển
của Sacombank như thế nào?
Năm
2000, Sacombank đã đề ra chiến lược 10 năm. Năm nay là năm cuối trong chặng
đường phát triển đó và Sacombank từng bước trở thành một trong những ngân hàng
thương mại hàng đầu tại Việt Nam.
Từ lúc thành lập vốn điều lệ chỉ vỏn vẹn 3 tỷ đồng nhưng giờ đây Sacombank nâng
vốn lên 9,200 tỷ đồng. Sacombank cũng đã lớn mạnh và vươn hoạt động ra tầm khu
vực. Sự thành công của Sacombank xuất phát từ 4 nhóm giải pháp lớn mang tính chiến
lược: Thứ nhất là mở rộng mạng lưới phát triển theo bề rộng từ thành thị xuống
nông thôn, có chú trọng phát triển địa điểm chiến lược tận dụng địa lợi. Thứ
hai tăng cường về quy mô vốn và tài sản nhằm gia tăng sức mạnh cạnh tranh. Thứ
ba là giải pháp về công nghệ và cuối cùng, Sacombank chú trọng phát triển đạo
tạo nguồn nhân lực. Trên thị trường tài chính, rủi ro của mọi rủi ro là con
người nên Sacombank luôn chú tâm xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực. Điều hạnh
phúc là tôi có các cộng sự và trên 8,000 CBNV luôn có tinh thần trách nhiệm,
lòng đam mê, cần cù lao động, sát cánh cùng tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi là người hạnh phúc nhất!
Mọi người thường nói rằng “phía sau một
người đàn ông thành đạt là bóng dáng một người phụ nữ với một gia đình êm
ấm”. Với sự nghiệp thành công của ông câu danh ngôn trên có đúng không?
Sau
khi chuyển hướng hoạt động qua lĩnh vực tài chính - tiền tệ, tôi giao lại Thành
Thành Công cho bà xã quản lý. Bất ngờ nhất là sau nhiều năm chỉ làm nội trợ và
chăm sóc con cái, ra thương trường bà xã tôi ngay lập tức có thể đảm đương xuất
sắc công việc kinh doanh. 19 năm nay kể khi bà xã trực tiếp điều hành Thành
Thành Công, quy mô Công ty đã lớn gấp 10 lần so với trước. Vợ chồng cùng là
doanh nhân, bà xã tôi là người rất hiểu và đồng cảm cho chồng, ngoài tình cảm,
con cái, chúng tôi còn có nhiều thứ để chia sẻ trong công việc. Ra xã hội, bà
xã tôi là một doanh nhân cừ khôi nhưng về nhà thì vẫn là một người phụ nữ
truyền thống: nhân hậu, dịu dàng, chăm sóc chồng con tốt, biết cách thu vén nhà
cửa, nấu ăn ngon…
Gia
đình tôi là một gia đình doanh nhân đúng nghĩa, ngoài tôi và bà xã, con trai cả
Đặng Hồng Anh cũng đang là Chủ tịch HĐQT của Sacomreal, con gái và con dâu cũng
theo nghiệp kinh doanh. Gia đình có một nguyên tắc là mọi thành viên đều tập
hợp quây quần tại bữa cơm trưa bởi lẽ vào buổi chiều doanh nhân thường xuyên
phải tiếp khách. Ngày xưa, đây là lúc để vợ chồng tôi giải đáp những thắc mắc
với con cái, tâm sự, trao đổi kinh nghiệm sống. Bây giờ mỗi buổi trưa gia đình
tụ họp ăn cơm cùng nhau, nhiều khi để trao đổi thông tin thương trường, chia sẻ
kinh nhiệm quản lý… Tôi nghĩ các thành viên trong gia đình rất cần có một sự
đồng cảm. Với công việc, tôi hạnh phúc vì có được đội ngũ đồng sự kế cận tin
cậy, khi trở về gia đình thì tôi càng hạnh phúc hơn vì đây thực sự là hậu phương
vững chắc.
Áp lực trong công việc là điều khó
tránh khỏi với một doanh nhân, ông đã giải toả điều này như thế nào?
Tôi
xem thể thao là phương pháp tốt để rèn luyện sức khoẻ cũng như để cân bằng cuộc
sống. Hơn 15 năm nay, mỗi sáng tôi đều chạy bộ từ 5 đến 10km. Thời gian gần
đây, tôi chơi thêm golf mỗi tuần hai buổi. Nhờ tập thể thao đều đặn tôi có sức
khoẻ và sự dẻo dai, điều này góp phần vào sự thành công trong công việc của
tôi. Một trong các ví dụ, tôi có thể đứng diễn thuyết trong các buổi hội thảo
ít nhất là 4 giờ đồng hồ liền. Tôi nghĩ sức khoẻ là quan trọng nhất, nếu có
hoài bão, tham vọng, chiến lược mà không có sức khoẻ để thực thi thì cơ hội
cũng sẽ trôi qua trước mắt. Tôi thấy rằng tình thương yêu, không khí gia đình
ấm cúng là nơi giải toả áp lực công việc nhanh nhất. Thương trường với những áp
lực là chuyện bình thường, nhưng cần phải biết cân bằng và xử lý nó trước khi về
đến gia đình.
Là một doanh nhân thành đạt và giàu
kinh nghiệm, ông muốn chia sẻ điều gì với thế hệ trẻ đang nuôi khát vọng
tiếp bước các đàn anh?
Có
thể nói thế hệ chúng tôi không có nhiều cơ hội học tập cao nhưng có cơ hội
nhiều hơn trên thương trường. Hiện tại thế hệ trẻ đứng trước nhiều thách thức
lớn hơn, để thành công có lẽ cần sự hội tụ của nhiều yếu tố: thiên thời, địa
lợi, nhân hoà... Thế hệ trẻ bây giờ tự tin hơn, có điều kiện tốt, tuy nhiên cần
phải có phương pháp làm việc, có tinh thần cầu tiến với hoài bão lớn thì mới
thành công. Kinh tế thị trường sẽ đào thải những người có lối sống thiển cận,
kinh doanh chộp giật. Với tôi, nếu như lúc trẻ mình đầy nhiệt huyết, hào hứng
bao nhiêu trong việc làm giàu thì bây giờ tôi muốn làm những việc mang tính
cống hiến cho xã hội bấy nhiêu.
30 tháng 5 2012
TRẦN ĐÌNH LONG
Chiếc trực thăng loại 6 chỗ ngồi do Chủ tịch Tập đoàn
Hòa Phát - Trần Đình Long mua hồi tháng 6/2010 đã được đổi bằng máy bay mới
loại 12 chỗ cùng chủng loại, nhằm phục vụ nhu cầu đi lại của vị doanh nhân này.
So với phi cơ riêng mang mã hiệu VN-D686 mà ông Long
bỏ hơn 5 triệu đôla Mỹ để mua hồi tháng 6/2010, chiếc trực thăng loại 12 chỗ
ngồi vừa được vị chủ tịch này đưa về Việt Nam hiện đại hơn rất nhiều. Ngoài sự
tiện nghi về nội thất, số ghế ngồi nhiều hơn, chiếc trực thăng mang mã VN-D668
này có khả năng bay xa hơn giúp ông chủ thép thực hiện chặng Hà Nội - Đà Nẵng
mà không cần phải tiếp nhiên liệu.
Theo đó, giá tiền cũng sẽ rất đắt, dù rằng ông Long
không tiết lộ con số cụ thể. Bên cạnh đó, khi về đến Việt Nam, chiếc máy
bay này sẽ phải chịu các loại thuế gồm VAT 10% và tiêu thụ đặc biệt 30%.
Chiếc trực thăng mang mã VN-D668 loại 12 chỗ mới tinh
của ông Trần Đình Long đang đỗ tại Sân bay Gia Lâm, Nguyễn Sơn Hà Nội. Chiếc
phi cơ cũ cũng chưa được bán mà vẫn đỗ tại đây và do Công ty Bay dịch vụ miền
Bắc, thuộc Tổng công ty Trực thăng VN quản lý.
Giống như lần trước, ông Long sử dụng tiền cá nhân để
mua máy bay nhằm phục vụ nhu cầu đi lại, công việc của mình. Đồng thời, trong
nhiều trường hợp, chiếc phi cơ riêng cũng phụ vụ ban lãnh đạo cũng như nhân viên
công ty nhằm đáp ứng kịp thời công việc phát sinh.
Nguồn tin của Tập đoàn Hòa Phát cho biết máy bay đã
tiết kiệm rất nhiều thời gian đi lại cho ban lãnh đạo công ty. Hiện tập đoàn có
rất nhiều dự án khai thác khoáng sản, sản xuất thép... đặt tại nhiều tỉnh
thành. Chẳng hạn, với dự án khai thác khoáng sản tại Hà Giang, chỉ cần khoảng một
giờ bay, ban lãnh đạo tập đoàn đã có thể có mặt ở đây để xử lý kịp thời các
công việc phát sinh.
"Chúng tôi coi máy bay là phương tiện đi lại.
Tôi cho rằng nếu không có cuộc khủng hoảng vừa qua, sẽ có nhiều cá nhân ở Việt Nam cũng sở hữu
máy bay riêng", một lãnh đạo Hòa Phát nói.
Hồi đầu tháng 4/2010, Chủ tịch Trần Đình Long lần đầu
tiên công khai trước đại hội cổ đông Tập đoàn Hòa Phát về khoản chi phí ban đầu
17,42 tỷ đồng dành để sắm máy bay riêng. Hợp đồng được ký kết thông qua Tập đoàn
Hòa Phát, song toàn bộ số tiền mua bán, thuê phi công, sân bay, bảo dưỡng, sửa
chữa do cá nhân ông Long chi trả. 17,42 tỷ đồng là số tiền mà ông Long chuyển
để thanh toán qua công ty.
Giá mua ban đầu của chiếc trực thăng loại 6 chỗ này
vào khoảng 3 triệu USD, cộng các loại thuế và chi phí phát sinh, chi phí mua
lên gần 5 triệu đôla Mỹ (tương đương 96 tỷ đồng).
Sau hơn một năm sử dụng, ông Long là người đầu tiên đổi máy bay bằng một chiếc rộng hơn và hiện đại hơn.
TRẦN QUỐC PHÚC
Doanh
nhân, diễn giả chương trình huấn luyện tư duy hành động theo triết lý - văn hóa
phương đông.
Những
câu nói của Trần Quốc Phúc
Sự học:
“Sự học mà có không tư duy chẳng khác nào ăn cơm mà không nhai”.
Gia
đình: “Nếu bạn không thể sống được với người thân yêu nhất của mình, thì bạn
cũng không thể sống được với ai khác”.
Gia
đình: "Nỗi bất hạnh nhất của một con người là đánh mất cội nguồn của chính
họ".
Sự
nghiệp: “Giá trị của bạn phụ thuộc vào việc bạn mang lại giá trị cho người
khác”.
Sự
nghiệp: “Đi làm là một hình thức đi học được trả lương”
Xã hội:
“Con người ta có thể nghĩ xấu, nói xấu và làm điều xấu nhưng họ vẫn luôn mong
muốn được đối xử tốt”.
Cuộc sống:
“Có ba cách để thay đổi số phận: Một là thay đổi môi trường sống, Hai là thay
đổi mối quan hệ, Ba là thay đổi thái độ của bạn”.
Cuộc sống:
"Hãy gieo cho mình những hạt giống trên con đường bạn đang đi, vì chắc hẳn
bạn sẽ được ngắm nhìn những bông hoa tươi đẹp khi quay trở lại"
Cuộc
sống: “Thành công của mọi thành công là có được một cuộc sống hạnh phúc và được
xã hội kính trọng”
Tu thân:
"Sống mà không có đạo cũng như trang điểm mà không có gương soi"
*Đạo là chơn
lý tuyệt đối, là luân lý của nhân loại, là giá trị mà con người sẽ hướng đến
theo "tánh" tự nhiên của con người và vạn vật.
Chịu
ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương đông
Phật
giáo, Lão tử, khổng tử, Mạnh tử, Tôn Tử
Chịu
ảnh hưởng của các định luật
Định
luật của Newton
Luật hấp
dẫn
Luật
nhân quả
Kỹ
thuật đang ứng dụng cuộc sống hiện tại
Tiếng
nói nhỏ từ bên trong
Hành
Hạnh Phúc
Cân bằng
cuộc sống (Sức khỏe, Mối quan hệ, Trí tuệ, Hưởng thụ, Công việc, chia sẻ)
Nhìn lại
chính mình
CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN – CHIA SẺ CỘNG ĐỒNG
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
DÀNH CHO KHỐI TỔ CHỨC/DOANH NGHIỆP
Chủ đề: HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC CUỘC ĐỜI
Phần 1. Bức tranh cuộc đời & thiết lập mục tiêu
Phần 2. Hoạch định chiến lược cuộc đời
Phần 3. Nhìn lại, tạo động lực bản thân/Điều chỉnh
chiến lược.
Nội dung chương trình
- Biết trân trọng 6 giá trị trong cuộc đời này trước khi lao vào mục tiêu
- Biết được ý nghĩa quan trọng nhất của con người
- Biết được tại sao chúng ta phải quí trọng bản thân
- Biết được Bản chất con người hình thành như thế nào? Cách thay đổi, chế ngự và xây dựng tính cách cho mình. (Ứng dụng vào giao tiếp và cư xử trong Doanh nghiệp)
- Thấu cảm bản thân và yêu thương người xung quanh để tạo nên sự đoàn kết trong doanh nghiệp
- Biết được tại sao phải sống trên cuộc đời này. Sứ mệnh của tôi là gì? Giá trị của tôi nằm ở đâu?
- Biết được cách thức để hành động không do dự, lan man
- Biết và thấu hiểu được số mệnh của một con người phụ thuộc vào điều gì
- Điều cuối cùng là xây dựng bức tranh cuộc đời đỉnh cao và hành động mỗi ngày bằng những kỹ thuật đơn giản
Chủ đề: NGHỆ THUẬT GIAO TIẾP TỰ NHIÊN
Phần 1. Gỡ bỏ võ bọc trước khi giao tiếp
Phần 2. Nghệ thuật giao tiếp (Với cấp trên, đồng
nghiệp, cấp dưới)
Phần 3. Rèn luyện phong thái và xây dựng hình ảnh bản
thân
Nội dung chương trình
- Hiểu và thấu cảm với mọi người xung quanh
- Gỡ bỏ rào cản, vỏ bọc để giao tiếp và thể hiện được chính mình
- Phân biệt đối tượng giao tiếp thuộc kiểu người gì
- Nghệ thuật lắng nghe
- Nghệ thuật giao tiếp & khen ngợi tự nhiên
- Trở nên “đẹp” hơn trong giao tiếp với mọi người
- Cách chế ngự sự nỗi giận trong giao tiếp với mọi người xung quanh
- Duy trì “chiếc đuôi” cho mỗi người trong công việc và cuộc sống
- Thể hiện giá trị của bạn trong các mối quan hệ (Cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp)
Chủ đề: THIẾT LẬP & XÂY DỰNG QUAN HỆ
BỀN VỮNG
PHẦN 1: SẴN SÀNG TÂM LÝ, GỠ BỎ VỎ BỌC ĐỂ GIAO
TIẾP
Câu chuyện về cảm giác không thích tạo dựng mối quan hệ
• Kém tự tin
• Tôi là No.1
• Thành kiến
Nhưng con người được sinh ra là như nhau…
Vén màn vô minh đi tìm giá trị cuộc đời…
Trải nghiệm phút đầu gặp gỡ
Kịch bản cuộc đời
PHẦN 2: NGHỆ THUẬT GIAO TIẾP - TẠO LẬP QUAN HỆ
Bốn giai đoạn cần tôn trọng trong việc tạo dựng mối quan hệ bền vững
• Làm quen
o Cảm giác An toàn trong giao tiếp
o Bí mật về âm thanh êm dịu nhất
o Mô hình khen tặng
o Mô hình Lắng nghe
o Điệu bộ ngoại hình – Phong thái
• Duy trì
o Một ít giá trị về bạn được hé lộ
• Phát triển
o Nhận phản hồi và chọn lọc phù hợp
• Hợp tác
o Hãy mang lại giá trị cho đối tác tốt nhất khi bạn có thể
Thiết lập “Relationship Cycle” cho bản thân
• Những người bạn cũ
• Những người bạn hiện tại
• Những người bạn trong tương lai
Nguyên tắc trong việc phát triển mối quan hệ
• Đâu là chân lý?
• Tích cực
• Làm gia tăng giá trị cho người
• Chân thành
Câu chuyện về cảm giác không thích tạo dựng mối quan hệ
• Kém tự tin
• Tôi là No.1
• Thành kiến
Nhưng con người được sinh ra là như nhau…
Vén màn vô minh đi tìm giá trị cuộc đời…
Trải nghiệm phút đầu gặp gỡ
Kịch bản cuộc đời
PHẦN 2: NGHỆ THUẬT GIAO TIẾP - TẠO LẬP QUAN HỆ
Bốn giai đoạn cần tôn trọng trong việc tạo dựng mối quan hệ bền vững
• Làm quen
o Cảm giác An toàn trong giao tiếp
o Bí mật về âm thanh êm dịu nhất
o Mô hình khen tặng
o Mô hình Lắng nghe
o Điệu bộ ngoại hình – Phong thái
• Duy trì
o Một ít giá trị về bạn được hé lộ
• Phát triển
o Nhận phản hồi và chọn lọc phù hợp
• Hợp tác
o Hãy mang lại giá trị cho đối tác tốt nhất khi bạn có thể
Thiết lập “Relationship Cycle” cho bản thân
• Những người bạn cũ
• Những người bạn hiện tại
• Những người bạn trong tương lai
Nguyên tắc trong việc phát triển mối quan hệ
• Đâu là chân lý?
• Tích cực
• Làm gia tăng giá trị cho người
• Chân thành
Chủ đề: NHÂN TÂM ỨNG DỤNG - THU PHỤC LÒNG
NGƯỜI
Nội dung chương trình:
- Phát họa chân dung
- Định hình phong cách lãnh đạo (Chia phong cách, tính cách con người)
- Xây dựng hệ giá trị bên trong
- Xây dựng hệ giá trị bên ngoài - Phong thái
- Xây dựng ân đức trong tổ chức, gia đình và xã hội
- Xây dựng “bản lề” - Áp dụng “giao ước”
- Kiểm soát hành động bằng “Tiếng nói nhỏ trong bạn”
- Xây dựng tinh thần làm việc giữa lãnh đạo – nhân viên
- Nhân tâm nhà lãnh đạo
Chủ đề: QUẢN LÝ CẢM XÚC – TƯ DUY TÍCH CỰC
Nội dung chương trình:
- Tôi đã lớn lên như thế nào?
- Kỹ thuật quan sát và nhìn lại chính mình
- Xây dựng “Bản lề” – trải nghiệm khác biệt trong cảm xúc – suy nghĩ
- Bản chất sự “nổi giận”
- Ba cách kiểm soát sự “nổi giận” hay cảm xúc tiêu cực
- Nguyên tắc vận hành và ảnh hưởng của Ý nghĩ
- Yêu thương thân thể mình – ươm mầm cho ý nghĩ tích cực
- Kỹ thuật xây dựng ý nghĩ tích cực – phản ứng tích cực
- Một ngày để sống - Đi tìm sứ mệnh cuộc đời tôi
- Xây dựng giá trị sống cho bản thân
Chủ đề: GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG & SỰ HÀI HÒA
Nội dung chương trình:
- Thời gian – sự bận rộn – ý niệm về cuộc sống hiện tại
- Tôi đã sống – đang sống – hướng sống
- Một ngày để sống - Đi tìm sứ mệnh cuộc đời tôi
- Ba giá trị thực dụng trong cuộc sống hiện đại
- Ý nghĩa sâu sắc khi thoát khỏi sự bận rộn
- Giá trị của sự trải nghiệm – hương vị cuộc sống
- Ý niệm về cuộc sống thịnh vượng cho tương lai
CHỦ ĐỀ CHIA
SẺ CỘNG ĐỒNG – DÀNH CHO BẠN TRẺ (NON – PROFIT)
Làm chủ hay làm thuê?
Tư duy cho người khởi nghiệp
Điều khiến bạn thành công
ngay khi còn trong ghế nhà trường
Hành trang vào đời – Tích
“lượng” để thành công
Các chủ đề khác: Tư duy
thịnh vượng, Bài toán cuộc đời, xây dựng giá trị bản thân, chữ “Bản” trong cuộc
sống và công việc,….
ĐỌC NHIỀU
-
[KINH SÁCH – MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH | KỲ 7] “Sách là người bạn trung thành và yên tĩnh nhất, chúng là những nhà cố vẫn dễ tiếp cận và khôn ng...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Phạm Công Tắc – tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những nhà lãnh đạo hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài Chân dung Danh Nh...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
Albert Einstein – Nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Ein...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Võ Quốc Thắng – Doanh nhân, Nhà sáng lập Công ty Cổ phần Đồng Tâm Võ Quốc Thắng (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1967) là đại biểu Quốc hội Việ...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CÔNG CHÚA
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KỸ SƯ
- L
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- M
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PLATON
- S
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- THÁI LAN
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia